Trang Tử (tiếng Hán: 莊子; ~365–290 trước CN là một triết gia và tác giả Đạo giáo. Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử.
Trang Tử là một trong những nhà tư tưởng đặc biệt vào loại hạng nhất thời ấy, rất giỏi kể chuyện, có sức tưởng tượng vô cùng phong phú.
Trang Tử là tác giả bộ Nam Hoa kinh gồm hơn mười vạn câu (thập dư vạn ngôn) để châm biếm cái học của Khổng Tử và xiển minh học thuật của Lão Tử.
Chí khí của bậc hiền triết Trang Tử cũng giống như căn bản nền tảng tư tưởng Đạo gia: ẩn dật mà khoáng đạt, quay trở về cuộc sống hòa hợp với tự nhiên, không muốn tham dự vào tranh quyền đoạt lợi, xa lánh những hệ lụy cuộc đời. Gần như đối lập với đạo Khổng mang bản thể trần tục, ưa thực tế, trọng thực nghiệm và đặc biệt tôn trọng chủ nghĩa nhân văn, Trang Tử kế tiếp truyền thống tư tưởng của Lão Tử, phát triển thành một hệ phái mà sau này người ta thường gọi một cách vắn tắt là Lão-Trang.
Văn chương trong Nam Hoa kinh rất có tiết tấu, nhiều câu dùng phép biền ngẫu, lời văn luôn luôn bóng bẩy, trôi chảy, ảnh hưởng rất lớn đến các thi nhân đời sau như Kê Khang, Nguyễn Tịch, Sơn Đào,... và ngay cả đời nhà Đường như Lý Bạch, đời nhà Tống như Tô Đông Pha.
Nam Hoa kinh, theo sách Hán thư Nghệ văn chí, gồm 55 thiên, nhưng ngày nay còn được 33 thiên.
Nam Hoa kinh (hay còn gọi là Nam Hoa chân kinh) gồm ba phần:
1. Nội thiên - gồm 7 thiên có tựa đề là: Tiêu dao du, Tề vật luận, Dưỡng sinh chủ, Nhân gian thế, Đức sung phù, Đại tôn sư, Ứng đế vương.
2. Ngoại thiên - gồm 15 thiên có tựa đề là: Biền mẫu, Mã đề, Khứ cự, Tại hựu, Thiên địa, Thiên đạo, Thiên vận, Khắc ý, Thiện tính, Thu thủy, Chí lạc, Đạt sinh, Sơn mộc, Điền tử phương, Tri bắc du.
3. Tạp thiên - gồm 11 thiên: Canh tang sở, Từ vô quỉ, Tắc dương, Ngoại vật, Ngụ ngôn, Nhượng vương, Đạo chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ, Liệt ngự khấu, Thiên hạ.
Sống trong thời kỳ lịch sử có nhiều biến động dữ dội, Trang Tử được coi là nhà tư tưởng lớn về đạo học trong triết học cổ Trung Quốc. Một người "thà chịu kéo lê cái đuôi trong bùn" để giữ nhân cách và bản lĩnh, tâm hồn thanh sạch của mình giữa vô vàn tạp loạn xã hội. Cuộc đời của Trang Tử gắn liền với giấc mơ bướm huyền thoại, gắn với vô số những trùng ngôn, ngụ ngôn sinh động, hấp dẫn. Các học giả khi nghiên cứu về Trang Tử đều cho rằng "khó có thể hiểu và trình bày đầy đủ, hệ thông triết học của ông".
Về Trang Tử, nhìn từ góc độ triết học, tư tưởng học hay văn học đều thấy được sự phong phú nổi trội trong cách thức biểu hiện: một Đạo gia "phóng nhiệm", "tài tử", "ngông" và đầy sáng tạo.
Trang tử có địa vị rất lớn trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, ngang với Mạnh tử, hơn Tuân tử, hơn cả Mặc tử nữa. Nhờ ông một phần lớn mà tư tưởng của Lão tử mới được phổ biến mạnh: chỉ giới trí thức mới quí những cách ngôn trong Đạo Đức kinh, còn giới bình dân thì ai cũng biết ít nhiều những ngụ ngôn của Trang tử. Tên ông gắn liền với tên của Lão tử và cả hai có công làm cho dân tộc Trung Hoa bớt thực tiễn, yêu thiên nhiên, tự do hơn, khoan dung hơn, khoáng đạt hơn… thơ văn cũng như hội hoạ từ Lục triều trở đi, nhất là dưới đời Tống đều mang dấu vết của Trang.
Ông là một triết gia tư tưởng độc đáo, một nghệ sĩ đa tài, văn ông vừa lãng mạn, nên thơ, vừa trào phúng, cay độc, ông sử dụng thuật ngụ ngôn không ai bằng”.
Lần đầu tiên Nam Hoa Kinh được dịch trọn bộ ra tiếng Việt và được phân tích kỹ lưỡng từng chương một để giữ cho Trang Tử những cái gì của Trang mà trả lại cho người trước và người sau những cái gì của người trước và người sau; có vậy mới đánh giá được sự cống hiến của Trang cho tư tưởng Trung Hoa.
Những đoạn nào tối nghĩa thì được dịch giả thận trọng ghi cả hai ba cách giải của người trước và tùy chỗ đưa ý kiến của riêng mình.
N.H.L
Mục Lục :
Phần 1: Tác giả và Tác phẩm
Chương 1: Thời đại và Đời sống
Chương 2: Tác phẩm
Xuất hiện từ thời nào?
Nội thiên
Ngoại thiên và Tạp thiên
Chương 3: Văn bộ Trang Tử
Ưu điểm
Nhược điểm
Một số nhà chú giải
Cách đọc Trang Tử
Chương 4: Học thuyết của Trang
Uyên nguyên từ đâu
Vũ trụ và căn bản luận
Tri thức luận
Chính trị luận
Nhân sinh quan
Lý tưởng của Trang
Dưỡng sinh
Xử thế
Kết
Phần 2: Nội thiên
Chương 1: Tiêu dao du
Chương 2: Tề vật luận
Chương 3: Dưỡng sinh chủ
Chương 4: Nhân gian thế
Chương 5: Đức sung phù
Chương 6: Đại tôn sư
Chương 7: Ứng đế vương
Phần 3: Ngoại thiên
Chương 8: Biền mẫu
Chương 9: Mã đề
Chương 10: Khư khiếp
Chương 11: Tại hựu
Chương 12: Thiên địa
Chương 13: Thiên đạo
Chương 14: Thiên vận
Chương 15: Khắc ý
Chương 16: Thiện tính
Chương 17: Thu thủy
Chương 18: Chí lạc
Chương 19: Đạt sinh
Chương 20: Sơn mộc
Chương 21: Điền tử phương
Chương 22: Trí Bắc du
Phần 4: Tạp thiên
Chương 23: Canh Tang Sở
Chương 24: Từ Vô Quỷ
Chương 25: Tác Dương
Chương 26: Ngoại vật
Chương 27: Ngụ gôn
Chương 28: Nhượng vương
Chương 29: Đạo chích
Chương 30: Thuyết kiếm
Chương 31: Ngư phủ
Chương 32: Liệt Ngự Khấu
Chương 33: Thiên hạ
Trang Tử là một trong những nhà tư tưởng đặc biệt vào loại hạng nhất thời ấy, rất giỏi kể chuyện, có sức tưởng tượng vô cùng phong phú.
Trang Tử là tác giả bộ Nam Hoa kinh gồm hơn mười vạn câu (thập dư vạn ngôn) để châm biếm cái học của Khổng Tử và xiển minh học thuật của Lão Tử.
Chí khí của bậc hiền triết Trang Tử cũng giống như căn bản nền tảng tư tưởng Đạo gia: ẩn dật mà khoáng đạt, quay trở về cuộc sống hòa hợp với tự nhiên, không muốn tham dự vào tranh quyền đoạt lợi, xa lánh những hệ lụy cuộc đời. Gần như đối lập với đạo Khổng mang bản thể trần tục, ưa thực tế, trọng thực nghiệm và đặc biệt tôn trọng chủ nghĩa nhân văn, Trang Tử kế tiếp truyền thống tư tưởng của Lão Tử, phát triển thành một hệ phái mà sau này người ta thường gọi một cách vắn tắt là Lão-Trang.
Văn chương trong Nam Hoa kinh rất có tiết tấu, nhiều câu dùng phép biền ngẫu, lời văn luôn luôn bóng bẩy, trôi chảy, ảnh hưởng rất lớn đến các thi nhân đời sau như Kê Khang, Nguyễn Tịch, Sơn Đào,... và ngay cả đời nhà Đường như Lý Bạch, đời nhà Tống như Tô Đông Pha.
Nam Hoa kinh, theo sách Hán thư Nghệ văn chí, gồm 55 thiên, nhưng ngày nay còn được 33 thiên.
Nam Hoa kinh (hay còn gọi là Nam Hoa chân kinh) gồm ba phần:
1. Nội thiên - gồm 7 thiên có tựa đề là: Tiêu dao du, Tề vật luận, Dưỡng sinh chủ, Nhân gian thế, Đức sung phù, Đại tôn sư, Ứng đế vương.
2. Ngoại thiên - gồm 15 thiên có tựa đề là: Biền mẫu, Mã đề, Khứ cự, Tại hựu, Thiên địa, Thiên đạo, Thiên vận, Khắc ý, Thiện tính, Thu thủy, Chí lạc, Đạt sinh, Sơn mộc, Điền tử phương, Tri bắc du.
3. Tạp thiên - gồm 11 thiên: Canh tang sở, Từ vô quỉ, Tắc dương, Ngoại vật, Ngụ ngôn, Nhượng vương, Đạo chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ, Liệt ngự khấu, Thiên hạ.
Sống trong thời kỳ lịch sử có nhiều biến động dữ dội, Trang Tử được coi là nhà tư tưởng lớn về đạo học trong triết học cổ Trung Quốc. Một người "thà chịu kéo lê cái đuôi trong bùn" để giữ nhân cách và bản lĩnh, tâm hồn thanh sạch của mình giữa vô vàn tạp loạn xã hội. Cuộc đời của Trang Tử gắn liền với giấc mơ bướm huyền thoại, gắn với vô số những trùng ngôn, ngụ ngôn sinh động, hấp dẫn. Các học giả khi nghiên cứu về Trang Tử đều cho rằng "khó có thể hiểu và trình bày đầy đủ, hệ thông triết học của ông".
Về Trang Tử, nhìn từ góc độ triết học, tư tưởng học hay văn học đều thấy được sự phong phú nổi trội trong cách thức biểu hiện: một Đạo gia "phóng nhiệm", "tài tử", "ngông" và đầy sáng tạo.
Trang tử có địa vị rất lớn trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, ngang với Mạnh tử, hơn Tuân tử, hơn cả Mặc tử nữa. Nhờ ông một phần lớn mà tư tưởng của Lão tử mới được phổ biến mạnh: chỉ giới trí thức mới quí những cách ngôn trong Đạo Đức kinh, còn giới bình dân thì ai cũng biết ít nhiều những ngụ ngôn của Trang tử. Tên ông gắn liền với tên của Lão tử và cả hai có công làm cho dân tộc Trung Hoa bớt thực tiễn, yêu thiên nhiên, tự do hơn, khoan dung hơn, khoáng đạt hơn… thơ văn cũng như hội hoạ từ Lục triều trở đi, nhất là dưới đời Tống đều mang dấu vết của Trang.
Ông là một triết gia tư tưởng độc đáo, một nghệ sĩ đa tài, văn ông vừa lãng mạn, nên thơ, vừa trào phúng, cay độc, ông sử dụng thuật ngụ ngôn không ai bằng”.
Lần đầu tiên Nam Hoa Kinh được dịch trọn bộ ra tiếng Việt và được phân tích kỹ lưỡng từng chương một để giữ cho Trang Tử những cái gì của Trang mà trả lại cho người trước và người sau những cái gì của người trước và người sau; có vậy mới đánh giá được sự cống hiến của Trang cho tư tưởng Trung Hoa.
Những đoạn nào tối nghĩa thì được dịch giả thận trọng ghi cả hai ba cách giải của người trước và tùy chỗ đưa ý kiến của riêng mình.
N.H.L
Mục Lục :
Phần 1: Tác giả và Tác phẩm
Chương 1: Thời đại và Đời sống
Chương 2: Tác phẩm
Xuất hiện từ thời nào?
Nội thiên
Ngoại thiên và Tạp thiên
Chương 3: Văn bộ Trang Tử
Ưu điểm
Nhược điểm
Một số nhà chú giải
Cách đọc Trang Tử
Chương 4: Học thuyết của Trang
Uyên nguyên từ đâu
Vũ trụ và căn bản luận
Tri thức luận
Chính trị luận
Nhân sinh quan
Lý tưởng của Trang
Dưỡng sinh
Xử thế
Kết
Phần 2: Nội thiên
Chương 1: Tiêu dao du
Chương 2: Tề vật luận
Chương 3: Dưỡng sinh chủ
Chương 4: Nhân gian thế
Chương 5: Đức sung phù
Chương 6: Đại tôn sư
Chương 7: Ứng đế vương
Phần 3: Ngoại thiên
Chương 8: Biền mẫu
Chương 9: Mã đề
Chương 10: Khư khiếp
Chương 11: Tại hựu
Chương 12: Thiên địa
Chương 13: Thiên đạo
Chương 14: Thiên vận
Chương 15: Khắc ý
Chương 16: Thiện tính
Chương 17: Thu thủy
Chương 18: Chí lạc
Chương 19: Đạt sinh
Chương 20: Sơn mộc
Chương 21: Điền tử phương
Chương 22: Trí Bắc du
Phần 4: Tạp thiên
Chương 23: Canh Tang Sở
Chương 24: Từ Vô Quỷ
Chương 25: Tác Dương
Chương 26: Ngoại vật
Chương 27: Ngụ gôn
Chương 28: Nhượng vương
Chương 29: Đạo chích
Chương 30: Thuyết kiếm
Chương 31: Ngư phủ
Chương 32: Liệt Ngự Khấu
Chương 33: Thiên hạ