Những người dám nói về tự nhiên như một đối tượng đã được nghiên cứu - họ làm điều đó là do quá tự tin hoặc do háo danh và thói quen thuyết giáo - đã gây ra một tổn thất to lớn cho triết học và cho các khoa học. Bởi vì, họ mạnh mẽ tới mức nào trong việc buộc người khác phải tin vào mình thì họ cũng thành công tới mức đó trong việc chặn đứng và bóp chết công việc nghiên cứu. Họ không hẳn đã mang lại lợi ích nhờ các năng lực của mình, mà chủ yếu gây ra tổn thất do đã lãng phí và giết chết năng lực của những người khác. Còn những người đi theo con đường đối lập và nhất quyết khẳng định rằng chúng ta không thể nhận thức được một cái gì cả đã đi tới sự tin tưởng ấy do họ căm ghét các nhà ngụy biện thời cổ đại, hoặc là do tinh thần yếu ớt, hay thậm chí là do có một kiểu thông thái nào đó, đã viện dẫn những lí do không nên coi thường. Tuy nhiên, trong ý kiến của mình, họ không xuất phát từ các cơ sở chân thực, và khi bị khát vọng và lòng nhiệt tình lôi cuốn về phía trước thì họ lại đi quá xa. Những người Hi Lạp cổ nhất (mà tác phẩm của họ đã bị thất lạc) giữ một lập trường hợp lí hơn giữa những phán đoán dứt khoát đầy tự tin và thái độ thất vọng. Mặc dù họ thường kêu ca và phàn nàn về khó khăn trong việc nghiên cứu và về sự bí ẩn của các sự vật, song cắn răng chịu đựng, họ không ngừng vươn tới mục đích và thử nghiệm giới tự nhiên. Như đã rõ, họ cho rằng vấn đề này (nghĩa là việc có thể nhận thức được một cái gì đó hay không) được giải quyết không phải bằng tranh luận mà bằng kinh nghiệm. Nhưng, khi chỉ biết đến sức mạnh của lí tính, cả họ cũng không dựa vào các quy tắc, mà vẫn thường trông cậy vào tư duy sắc sảo, vào tính năng động và tính tích cực của trí tuệ.
***
Review Công Nguyễn Đỗ:
Tác phẩm này có thể tóm lược ở mấy điểm:
Cách ngôn 1:
- Bacon phê phán diễn dịch (tam đoạn luận), đề xuất xây dựng tiên đề dựa trên quy nạp (các kinh nghiệm), sau khi có các tiên đề thì mới tiến hành diễn dịch.
- Phê phán "ngẫu tượng": đại loại ngẫu tượng là những cái không tốt, bị phê phán. Có mấy loại, chỉ xin nêu 2 loại: 1 loại do lý trí tự nhiên gây dựng nên, 1 loại do các triết gia đi trước đưa ra (rạp hát).
- Tách khoa học khỏi triết học. Cảm nhận của mình thì cách ngôn 2 của Bacon
- Phát hiện có tính ngẫu nhiên. Tuy nhiên nếu có phương pháp thì chỉ cần thời gian là đủ, và phát hiện được nhiều thứ hơn. Phát hiện ra những thứ không thể hình dung ra, mà sau này nhìn lại thì thấy đó là những thứ hiển nhiên.
Cách ngôn 2:
Gồm 27 loai ví dụ chủ yếu, trong đó ví dụ chủ yếu 24 có 19 loại chuyển động.
Phần này mình đọc qua qua, không hứng thú lắm, mình tham khảo đâu đó thì phần này để huấn luyện cho tư duy, còn theo mình thấy thì phần này (cũng như 1 vài phần trong cách ngôn 1) là áp dụng mô hình của Bacon vào thực tiễn, trình bày các tiên đề rút ra từ kinh nghiệm. khá nhiều kiến thức cơ học, khoa học tự nhiên… mình thấy những nội dung này chủ yếu mang tính lịch sử, tức là với kiến thức bây giờ thì những gì Bacon đưa ra cảm giác khá lỗi thời, tuy nhiên lại đáng kể trong thời đại của ông. Xin trích lại 1 câu của Bacon để kết thúc phần này: "Song, trên con đường phát hiện ấy, trí tuệ con người thường cứng nhắc và yếu kém tới mức lúc đầu nó không tin tưởng mình, ngay lập tức khinh thường mình: lúc đầu nó có cảm tưởng rằng phát hiện như vậy là không thể, nhưng sau khi đã có phát hiện ấy, nó lại có cảm tưởng là không thể có việc con người trong suốt một thời gian dài lại không hề nhận thấy điều ấy." Phải chăng chính Bacon và mình cũng rơi vào tình trạng ấy: nhiều nội dung trong cuốn sách này mà mình cảm thấy khá ngây ngô khi so với tri thức hiện đại, biết đâu sau này con cháu mình nhìn lại những phát kiến của thời đại mình cũng cảm thấy những nội dung ấy quá ngây ngô so với tri thức thời của nó?
***
Những người dám nói về tự nhiên như một đối tượng đã được nghiên cứu - họ làm điều đó là do quá tự tin hoặc do háo danh và thói quen thuyết giáo - đã gây ra một tổn thất to lớn cho triết học và cho các khoa học. Bởi vì, họ mạnh mẽ tới mức nào trong việc buộc người khác phải tin vào mình thì họ cũng thành công tới mức đó trong việc chặn đứng và bóp chết công việc nghiên cứu. Họ không hẳn đã mang lại lợi ích nhờ các năng lực của mình, mà chủ yếu gây ra tổn thất do đã lãng phí và giết chết năng lực của những người khác. Còn những người đi theo con đường đối lập và nhất quyết khẳng định rằng chúng ta không thể nhận thức được một cái gì cả đã đi tới sự tin tưởng ấy do họ căm ghét các nhà ngụy biện thời cổ đại, hoặc là do tinh thần yếu ớt, hay thậm chí là do có một kiểu thông thái nào đó, đã viện dẫn những lí do không nên coi thường. Tuy nhiên, trong ý kiến của mình, họ không xuất phát từ các cơ sở chân thực, và khi bị khát vọng và lòng nhiệt tình lôi cuốn về phía trước thì họ lại đi quá xa. Những người Hi Lạp cổ nhất (mà tác phẩm của họ đã bị thất lạc) giữ một lập trường hợp lí hơn giữa những phán đoán dứt khoát đầy tự tin và thái độ thất vọng. Mặc dù họ thường kêu ca và phàn nàn về khó khăn trong việc nghiên cứu và về sự bí ẩn của các sự vật, song cắn răng chịu đựng, họ không ngừng vươn tới mục đích và thử nghiệm giới tự nhiên. Như đã rõ, họ cho rằng vấn đề này (nghĩa là việc có thể nhận thức được một cái gì đó hay không) được giải quyết không phải bằng tranh luận mà bằng kinh nghiệm. Nhưng, khi chỉ biết đến sức mạnh của lí tính, cả họ cũng không dựa vào các quy tắc, mà vẫn thường trông cậy vào tư duy sắc sảo, vào tính năng động và tính tích cực của trí tuệ.
Phương pháp của chúng ta dễ dàng trong lời nói bao nhiêu thì lại khó khăn trong công việc bấy nhiêu. Vì phương pháp nằm ở chỗ chúng ta xác định độ tin cậy của cảm tính khi xem xét nó trong những giới hạn riêng và loại bỏ phần lớn công việc của lí tính đi theo cảm tính, sau đó phát hiện và mở ra cho lí tính một con đường mới đáng tin cậy, bắt nguồn từ bản thân trực giác cảm tính. Đương nhiên, cả những người gán cho phép biện chứng một ý nghĩa như vậy cũng đã hiểu được điều này. Từ đó chúng ta cũng thấy rõ tại sao họ đã tìm kiếm sự trợ giúp cho lí tính, khi có thái độ hoài nghi đối với hoạt động bẩm sinh và tự phát của lí trí. Nhưng phương pháp này được sử dụng quá muộn, khi mà công việc đã bị bóp chết: khi mà lí trí đã bị những ràng buộc của cuộc sống hằng ngày, những lời nói và học thuyết giả dối khống chế, khi mà nó đã bị những ngẫu tượng1 trống rỗng lấn át. Như vậy, nghệ thuật biện chứng này, mà về sau (như chúng ta đã nói) đã đứng lên bảo vệ lí tính và hoàn toàn không cải tiến công việc, thật ra đã đưa tới chỗ củng cố các sai lầm hơn là phát hiện chân lí. Giải thoát duy nhất là phải bắt đầu lại toàn bộ công việc của lí tính và lí trí, ngay từ đầu lí trí không được hành động tùy tiện, mà nó phải thường xuyên được điều khiển và công việc diễn ra giống như một cỗ máy. Trên thực tế, nếu con người bắt tay vào công việc cơ giới chỉ bằng đôi tay, không có sự hỗ trợ của công cụ, cũng giống khi họ không ngần ngại bắt tay vào công việc trí óc mà dường như chỉ nhờ nỗ lực của lí trí, thì họ chỉ có thể dịch chuyển và khắc phục được các vật không đáng kể, mặc dù họ đã có những nỗ lực đầy tâm huyết và hơn nữa là những nỗ lực phù hợp với công việc đó. Nếu muốn dừng lại chút ít ở ví dụ này và xem xét nó, như khi chúng ta nhìn vào gương, chúng ta có thể đặt ra tình huống sau: phải di chuyển một đài tưởng niệm rất nặng đến một buổi lễ, nếu con người bắt tay vào công việc ấy chỉ bằng đôi bàn tay, thì bất kì người quan sát tỉnh táo nào có lẽ nào lại không coi điều đó là biểu hiện của một sự mất trí hoàn toàn? Lẽ nào người quan sát lại càng không coi đó là một sự mất trí khi người ta tăng thêm số người làm việc và nghĩ rằng như vậy là họ sẽ lo liệu được công việc ấy? Còn nếu họ tiến hành một sự chọn lọc, để lại những người yếu ớt, chỉ sử dụng những người khoẻ mạnh, và hi vọng sẽ hoàn thành công việc bằng cách đó, thì lẽ nào người quan sát không nói rằng họ lại càng mất trí hơn nữa? Và, cuối cùng, nếu chưa bằng lòng với điều đó, họ quyết định sử dụng kĩ thuật điền kinh, ra lệnh cho mọi người đi đến với đôi tay và cơ bắp vạm vỡ và chuẩn bị tốt cho công việc, thì lẽ nào người quan sát lại không kêu toáng lên rằng họ làm việc chỉ để hành động gàn dở theo một quy tắc và ý định nào đó? Con người bắt tay vào công việc trí óc với một thái độ hăng hái phi lí và đồng tâm vô ích như vậy khi họ đặt hi vọng lớn lao vào vô số lí trí, hoặc vào tính vượt trội và tính sắc bén của chúng, hoặc là tăng cường tính kiên định của lí trí nhờ phép biện chứng (mà có thể coi là một môn điền kinh); trong khi đó thì ai suy luận đúng đắn sẽ nhận thấy rõ rằng, với tất cả tâm huyết và nỗ lực, họ vẫn chỉ không ngừng sử dụng lí tính trống rỗng. Nhưng có một điều cũng hoàn toàn hiển nhiên là trong bất kì công việc quan trọng nào mà con người thực hiện không có công cụ và máy móc, thì sức lực của từng người cũng không được tận dụng hết, dù là một mình hay là hợp nhất lại.
Như vậy, từ những tiền đề do chúng tôi xác lập, có thể rút ra hai điều mà chúng tôi muốn mọi người không lãng quên chúng. Điều thứ nhất, chúng tôi cho rằng, sẽ là một dấu hiệu tốt đẹp nếu chúng ta giữ nguyên danh dự và sự tôn trọng đối với người thời cổ để làm giảm bớt và loại bỏ những bàn luận khác nhau cùng với thói kiêu căng, thì chúng ta có thể sẽ thực hiện được dự định trong khi chỉ sử dụng thành quả từ tính khiêm tốn của mình. Bởi vì, nếu tuyên bố rằng, chúng ta có thể đạt đến được những kết quả tốt hơn so với người thời cổ khi chúng ta vẫn đi theo chính con đường mà họ đã đi, thì chúng ta không thể dùng xảo ngôn để bác bỏ sự so sánh và tranh luận về tài năng, về ưu thế, hay về năng lực. Đương nhiên, cuộc tranh luận này không phải là điều cấm đoán hay mới mẻ gì. Bởi vì, nếu người thời cổ đã xác lập và phát hiện ra một điều gì đó sai lầm, thì tại sao chúng ta, cũng như mọi người, lại không có quyền chỉ ra và bác bỏ điều đó? Tuy nhiên, cho dù cuộc tranh luận này là có lí và được phép, thì nó vẫn có thể không phù hợp với năng lực của chúng ta. Song, do chúng ta cố gắng tìm cho lí tính một con đường hoàn toàn mới mà người thời cổ chưa biết tới và chưa trải qua, nên tình hình sẽ khác đi. Sự ganh đua và tranh luận giữa các bên sẽ chấm dứt. Chúng ta chỉ giữ lại cho mình vai trò của người dẫn đường, điều này đương nhiên chỉ là giá trị trung gian và chủ yếu là nhờ may mắn hơn là nhờ năng lực và ưu thế. Lời cảnh báo này có quan hệ với cá nhân, còn lời cảnh báo khác có quan hệ với bản thân sự vật.
Chúng tôi hoàn toàn không có ý định bác bỏ thứ triết học đang hưng thịnh, hay một thứ triết học khác đúng đắn và hoàn hảo hơn. Chúng tôi cũng không ngăn cản việc thứ triết học phổ biến này và các thứ triết học khác cùng kiểu đó tiến hành các cuộc tranh luận, tô đẹp lời nói, được giảng dạy tỉ mỉ trong cuộc sống hằng ngày. Hơn nữa, chúng tôi công khai tuyên bố rằng, thứ triết học mà chúng tôi sẽ đem lại, sẽ không hữu ích cho những công việc như vậy. Nó không thể được nắm bắt ngay lập tức, không trả thù lí tính bằng những định kiến và cũng không dễ hiểu đối với đám đông, ngoài tính hữu ích và tính hiệu quả của nó.
Như vậy, vì hạnh phúc và lợi ích của cả hai bên, sẽ có hai nguồn gốc của các học thuyết và hai nhánh của chúng, hệt như vậy, sẽ có hai nhóm học giả hoặc triết gia không những hoàn toàn không thù địch và không xa lạ, mà còn liên minh và trợ giúp lẫn nhau. Cứ cho là một số người sẽ nghiên cứu khoa học, còn số khác sẽ phát minh ra nó. Những người ưa thích công việc thứ nhất hơn hoặc là do họ hấp tấp, hoặc là do đòi hỏi của cuộc sống hằng ngày, cũng có thể là do họ không thể nắm bắt và tiếp nhận công việc khác vì khả năng trí tuệ không thật tốt của họ (mà điều này lại rất hay gặp) so với chúng ta, thì chúng ta vẫn mong muốn họ may mắn đạt tới thành công trong công việc mà họ đang làm và họ vẫn tiếp tục duy trì phương hướng mà họ đã chọn. Nhưng, nếu những người không bất tử không muốn dừng lại ở những gì đã khám phá ra và sử dụng chúng, mà còn muốn thâm nhập sâu hơn và chiến thắng đối thủ - giới tự nhiên - không phải bằng tranh luận mà bằng công việc, và cuối cùng, không phải bằng những giả định hoa mĩ mà bằng những hiểu biết một cách chắc chắn và rõ ràng thì hãy để cho họ liên kết với chúng ta như là những đứa con chân chính của khoa học, sau khi bỏ lại những cái bên ngoài của giới tự nhiên mà đám đông vô tận đã phong tỏa, để cuối cùng đi vào được bên trong của nó.
Để mọi người hiểu chúng tôi rõ hơn và để cho những gì chúng tôi mong muốn được biểu thị bằng tên gọi gần gũi hơn, chúng tôi thường gọi một trong các phương pháp, hay các con đường, là Sự đoán định trước của lí trí, còn phương pháp khác là Sự lí giải về giới tự nhiên.
Chúng tôi còn có một nguyện vọng nữa. Đương nhiên, trong suy tư của mình, chúng tôi cố gắng và có ý định làm sao đó để những điều chúng tôi đưa ra không những là chân thực mà còn dễ tiếp cận đối với tinh thần của những người dù rất bận rộn và vất vả. Tuy nhiên, chúng tôi có thể hi vọng (đặc biệt là trong công việc phục hồi khoa học quan trọng này) rằng, những người muốn nói một điều gì đó về tác phẩm này của chúng tôi dựa trên hoặc là sự hiểu biết của bản thân, hoặc là vô số quyền uy, hoặc là các hình thức chứng minh (mà bây giờ đã trở thành luật), không có ý định làm điều đó một cách thoáng qua hay nhân thể nói thêm. Trước hết cứ để họ nghiên cứu đối tượng một cách thoả đáng; để bản thân họ trải qua một chút ít con đường mà chúng tôi chỉ ra và đề nghị; để họ làm quen với sự tinh tế của các sự vật được in dấu trong kinh nghiệm; cuối cùng, cứ để họ trì hoãn đúng lúc và dường như hợp quy luật việc sửa chữa các thói quen sai lầm đã ăn sâu vào lí trí; khi đó thì rốt cuộc, sau khi họ có khả năng làm điều ấy, cứ để họ sử dụng năng lực phán đoán của họ.
***
Review Công Nguyễn Đỗ:
Tác phẩm này có thể tóm lược ở mấy điểm:
Cách ngôn 1:
- Bacon phê phán diễn dịch (tam đoạn luận), đề xuất xây dựng tiên đề dựa trên quy nạp (các kinh nghiệm), sau khi có các tiên đề thì mới tiến hành diễn dịch.
- Phê phán "ngẫu tượng": đại loại ngẫu tượng là những cái không tốt, bị phê phán. Có mấy loại, chỉ xin nêu 2 loại: 1 loại do lý trí tự nhiên gây dựng nên, 1 loại do các triết gia đi trước đưa ra (rạp hát).
- Tách khoa học khỏi triết học. Cảm nhận của mình thì cách ngôn 2 của Bacon
- Phát hiện có tính ngẫu nhiên. Tuy nhiên nếu có phương pháp thì chỉ cần thời gian là đủ, và phát hiện được nhiều thứ hơn. Phát hiện ra những thứ không thể hình dung ra, mà sau này nhìn lại thì thấy đó là những thứ hiển nhiên.
Cách ngôn 2:
Gồm 27 loai ví dụ chủ yếu, trong đó ví dụ chủ yếu 24 có 19 loại chuyển động.
Phần này mình đọc qua qua, không hứng thú lắm, mình tham khảo đâu đó thì phần này để huấn luyện cho tư duy, còn theo mình thấy thì phần này (cũng như 1 vài phần trong cách ngôn 1) là áp dụng mô hình của Bacon vào thực tiễn, trình bày các tiên đề rút ra từ kinh nghiệm. khá nhiều kiến thức cơ học, khoa học tự nhiên… mình thấy những nội dung này chủ yếu mang tính lịch sử, tức là với kiến thức bây giờ thì những gì Bacon đưa ra cảm giác khá lỗi thời, tuy nhiên lại đáng kể trong thời đại của ông. Xin trích lại 1 câu của Bacon để kết thúc phần này: "Song, trên con đường phát hiện ấy, trí tuệ con người thường cứng nhắc và yếu kém tới mức lúc đầu nó không tin tưởng mình, ngay lập tức khinh thường mình: lúc đầu nó có cảm tưởng rằng phát hiện như vậy là không thể, nhưng sau khi đã có phát hiện ấy, nó lại có cảm tưởng là không thể có việc con người trong suốt một thời gian dài lại không hề nhận thấy điều ấy." Phải chăng chính Bacon và mình cũng rơi vào tình trạng ấy: nhiều nội dung trong cuốn sách này mà mình cảm thấy khá ngây ngô khi so với tri thức hiện đại, biết đâu sau này con cháu mình nhìn lại những phát kiến của thời đại mình cũng cảm thấy những nội dung ấy quá ngây ngô so với tri thức thời của nó?
***
Những người dám nói về tự nhiên như một đối tượng đã được nghiên cứu - họ làm điều đó là do quá tự tin hoặc do háo danh và thói quen thuyết giáo - đã gây ra một tổn thất to lớn cho triết học và cho các khoa học. Bởi vì, họ mạnh mẽ tới mức nào trong việc buộc người khác phải tin vào mình thì họ cũng thành công tới mức đó trong việc chặn đứng và bóp chết công việc nghiên cứu. Họ không hẳn đã mang lại lợi ích nhờ các năng lực của mình, mà chủ yếu gây ra tổn thất do đã lãng phí và giết chết năng lực của những người khác. Còn những người đi theo con đường đối lập và nhất quyết khẳng định rằng chúng ta không thể nhận thức được một cái gì cả đã đi tới sự tin tưởng ấy do họ căm ghét các nhà ngụy biện thời cổ đại, hoặc là do tinh thần yếu ớt, hay thậm chí là do có một kiểu thông thái nào đó, đã viện dẫn những lí do không nên coi thường. Tuy nhiên, trong ý kiến của mình, họ không xuất phát từ các cơ sở chân thực, và khi bị khát vọng và lòng nhiệt tình lôi cuốn về phía trước thì họ lại đi quá xa. Những người Hi Lạp cổ nhất (mà tác phẩm của họ đã bị thất lạc) giữ một lập trường hợp lí hơn giữa những phán đoán dứt khoát đầy tự tin và thái độ thất vọng. Mặc dù họ thường kêu ca và phàn nàn về khó khăn trong việc nghiên cứu và về sự bí ẩn của các sự vật, song cắn răng chịu đựng, họ không ngừng vươn tới mục đích và thử nghiệm giới tự nhiên. Như đã rõ, họ cho rằng vấn đề này (nghĩa là việc có thể nhận thức được một cái gì đó hay không) được giải quyết không phải bằng tranh luận mà bằng kinh nghiệm. Nhưng, khi chỉ biết đến sức mạnh của lí tính, cả họ cũng không dựa vào các quy tắc, mà vẫn thường trông cậy vào tư duy sắc sảo, vào tính năng động và tính tích cực của trí tuệ.
Phương pháp của chúng ta dễ dàng trong lời nói bao nhiêu thì lại khó khăn trong công việc bấy nhiêu. Vì phương pháp nằm ở chỗ chúng ta xác định độ tin cậy của cảm tính khi xem xét nó trong những giới hạn riêng và loại bỏ phần lớn công việc của lí tính đi theo cảm tính, sau đó phát hiện và mở ra cho lí tính một con đường mới đáng tin cậy, bắt nguồn từ bản thân trực giác cảm tính. Đương nhiên, cả những người gán cho phép biện chứng một ý nghĩa như vậy cũng đã hiểu được điều này. Từ đó chúng ta cũng thấy rõ tại sao họ đã tìm kiếm sự trợ giúp cho lí tính, khi có thái độ hoài nghi đối với hoạt động bẩm sinh và tự phát của lí trí. Nhưng phương pháp này được sử dụng quá muộn, khi mà công việc đã bị bóp chết: khi mà lí trí đã bị những ràng buộc của cuộc sống hằng ngày, những lời nói và học thuyết giả dối khống chế, khi mà nó đã bị những ngẫu tượng1 trống rỗng lấn át. Như vậy, nghệ thuật biện chứng này, mà về sau (như chúng ta đã nói) đã đứng lên bảo vệ lí tính và hoàn toàn không cải tiến công việc, thật ra đã đưa tới chỗ củng cố các sai lầm hơn là phát hiện chân lí. Giải thoát duy nhất là phải bắt đầu lại toàn bộ công việc của lí tính và lí trí, ngay từ đầu lí trí không được hành động tùy tiện, mà nó phải thường xuyên được điều khiển và công việc diễn ra giống như một cỗ máy. Trên thực tế, nếu con người bắt tay vào công việc cơ giới chỉ bằng đôi tay, không có sự hỗ trợ của công cụ, cũng giống khi họ không ngần ngại bắt tay vào công việc trí óc mà dường như chỉ nhờ nỗ lực của lí trí, thì họ chỉ có thể dịch chuyển và khắc phục được các vật không đáng kể, mặc dù họ đã có những nỗ lực đầy tâm huyết và hơn nữa là những nỗ lực phù hợp với công việc đó. Nếu muốn dừng lại chút ít ở ví dụ này và xem xét nó, như khi chúng ta nhìn vào gương, chúng ta có thể đặt ra tình huống sau: phải di chuyển một đài tưởng niệm rất nặng đến một buổi lễ, nếu con người bắt tay vào công việc ấy chỉ bằng đôi bàn tay, thì bất kì người quan sát tỉnh táo nào có lẽ nào lại không coi điều đó là biểu hiện của một sự mất trí hoàn toàn? Lẽ nào người quan sát lại càng không coi đó là một sự mất trí khi người ta tăng thêm số người làm việc và nghĩ rằng như vậy là họ sẽ lo liệu được công việc ấy? Còn nếu họ tiến hành một sự chọn lọc, để lại những người yếu ớt, chỉ sử dụng những người khoẻ mạnh, và hi vọng sẽ hoàn thành công việc bằng cách đó, thì lẽ nào người quan sát không nói rằng họ lại càng mất trí hơn nữa? Và, cuối cùng, nếu chưa bằng lòng với điều đó, họ quyết định sử dụng kĩ thuật điền kinh, ra lệnh cho mọi người đi đến với đôi tay và cơ bắp vạm vỡ và chuẩn bị tốt cho công việc, thì lẽ nào người quan sát lại không kêu toáng lên rằng họ làm việc chỉ để hành động gàn dở theo một quy tắc và ý định nào đó? Con người bắt tay vào công việc trí óc với một thái độ hăng hái phi lí và đồng tâm vô ích như vậy khi họ đặt hi vọng lớn lao vào vô số lí trí, hoặc vào tính vượt trội và tính sắc bén của chúng, hoặc là tăng cường tính kiên định của lí trí nhờ phép biện chứng (mà có thể coi là một môn điền kinh); trong khi đó thì ai suy luận đúng đắn sẽ nhận thấy rõ rằng, với tất cả tâm huyết và nỗ lực, họ vẫn chỉ không ngừng sử dụng lí tính trống rỗng. Nhưng có một điều cũng hoàn toàn hiển nhiên là trong bất kì công việc quan trọng nào mà con người thực hiện không có công cụ và máy móc, thì sức lực của từng người cũng không được tận dụng hết, dù là một mình hay là hợp nhất lại.
Như vậy, từ những tiền đề do chúng tôi xác lập, có thể rút ra hai điều mà chúng tôi muốn mọi người không lãng quên chúng. Điều thứ nhất, chúng tôi cho rằng, sẽ là một dấu hiệu tốt đẹp nếu chúng ta giữ nguyên danh dự và sự tôn trọng đối với người thời cổ để làm giảm bớt và loại bỏ những bàn luận khác nhau cùng với thói kiêu căng, thì chúng ta có thể sẽ thực hiện được dự định trong khi chỉ sử dụng thành quả từ tính khiêm tốn của mình. Bởi vì, nếu tuyên bố rằng, chúng ta có thể đạt đến được những kết quả tốt hơn so với người thời cổ khi chúng ta vẫn đi theo chính con đường mà họ đã đi, thì chúng ta không thể dùng xảo ngôn để bác bỏ sự so sánh và tranh luận về tài năng, về ưu thế, hay về năng lực. Đương nhiên, cuộc tranh luận này không phải là điều cấm đoán hay mới mẻ gì. Bởi vì, nếu người thời cổ đã xác lập và phát hiện ra một điều gì đó sai lầm, thì tại sao chúng ta, cũng như mọi người, lại không có quyền chỉ ra và bác bỏ điều đó? Tuy nhiên, cho dù cuộc tranh luận này là có lí và được phép, thì nó vẫn có thể không phù hợp với năng lực của chúng ta. Song, do chúng ta cố gắng tìm cho lí tính một con đường hoàn toàn mới mà người thời cổ chưa biết tới và chưa trải qua, nên tình hình sẽ khác đi. Sự ganh đua và tranh luận giữa các bên sẽ chấm dứt. Chúng ta chỉ giữ lại cho mình vai trò của người dẫn đường, điều này đương nhiên chỉ là giá trị trung gian và chủ yếu là nhờ may mắn hơn là nhờ năng lực và ưu thế. Lời cảnh báo này có quan hệ với cá nhân, còn lời cảnh báo khác có quan hệ với bản thân sự vật.
Chúng tôi hoàn toàn không có ý định bác bỏ thứ triết học đang hưng thịnh, hay một thứ triết học khác đúng đắn và hoàn hảo hơn. Chúng tôi cũng không ngăn cản việc thứ triết học phổ biến này và các thứ triết học khác cùng kiểu đó tiến hành các cuộc tranh luận, tô đẹp lời nói, được giảng dạy tỉ mỉ trong cuộc sống hằng ngày. Hơn nữa, chúng tôi công khai tuyên bố rằng, thứ triết học mà chúng tôi sẽ đem lại, sẽ không hữu ích cho những công việc như vậy. Nó không thể được nắm bắt ngay lập tức, không trả thù lí tính bằng những định kiến và cũng không dễ hiểu đối với đám đông, ngoài tính hữu ích và tính hiệu quả của nó.
Như vậy, vì hạnh phúc và lợi ích của cả hai bên, sẽ có hai nguồn gốc của các học thuyết và hai nhánh của chúng, hệt như vậy, sẽ có hai nhóm học giả hoặc triết gia không những hoàn toàn không thù địch và không xa lạ, mà còn liên minh và trợ giúp lẫn nhau. Cứ cho là một số người sẽ nghiên cứu khoa học, còn số khác sẽ phát minh ra nó. Những người ưa thích công việc thứ nhất hơn hoặc là do họ hấp tấp, hoặc là do đòi hỏi của cuộc sống hằng ngày, cũng có thể là do họ không thể nắm bắt và tiếp nhận công việc khác vì khả năng trí tuệ không thật tốt của họ (mà điều này lại rất hay gặp) so với chúng ta, thì chúng ta vẫn mong muốn họ may mắn đạt tới thành công trong công việc mà họ đang làm và họ vẫn tiếp tục duy trì phương hướng mà họ đã chọn. Nhưng, nếu những người không bất tử không muốn dừng lại ở những gì đã khám phá ra và sử dụng chúng, mà còn muốn thâm nhập sâu hơn và chiến thắng đối thủ - giới tự nhiên - không phải bằng tranh luận mà bằng công việc, và cuối cùng, không phải bằng những giả định hoa mĩ mà bằng những hiểu biết một cách chắc chắn và rõ ràng thì hãy để cho họ liên kết với chúng ta như là những đứa con chân chính của khoa học, sau khi bỏ lại những cái bên ngoài của giới tự nhiên mà đám đông vô tận đã phong tỏa, để cuối cùng đi vào được bên trong của nó.
Để mọi người hiểu chúng tôi rõ hơn và để cho những gì chúng tôi mong muốn được biểu thị bằng tên gọi gần gũi hơn, chúng tôi thường gọi một trong các phương pháp, hay các con đường, là Sự đoán định trước của lí trí, còn phương pháp khác là Sự lí giải về giới tự nhiên.
Chúng tôi còn có một nguyện vọng nữa. Đương nhiên, trong suy tư của mình, chúng tôi cố gắng và có ý định làm sao đó để những điều chúng tôi đưa ra không những là chân thực mà còn dễ tiếp cận đối với tinh thần của những người dù rất bận rộn và vất vả. Tuy nhiên, chúng tôi có thể hi vọng (đặc biệt là trong công việc phục hồi khoa học quan trọng này) rằng, những người muốn nói một điều gì đó về tác phẩm này của chúng tôi dựa trên hoặc là sự hiểu biết của bản thân, hoặc là vô số quyền uy, hoặc là các hình thức chứng minh (mà bây giờ đã trở thành luật), không có ý định làm điều đó một cách thoáng qua hay nhân thể nói thêm. Trước hết cứ để họ nghiên cứu đối tượng một cách thoả đáng; để bản thân họ trải qua một chút ít con đường mà chúng tôi chỉ ra và đề nghị; để họ làm quen với sự tinh tế của các sự vật được in dấu trong kinh nghiệm; cuối cùng, cứ để họ trì hoãn đúng lúc và dường như hợp quy luật việc sửa chữa các thói quen sai lầm đã ăn sâu vào lí trí; khi đó thì rốt cuộc, sau khi họ có khả năng làm điều ấy, cứ để họ sử dụng năng lực phán đoán của họ.