Giới thiệu tác phẩm này của minh, nữ văn hào Pearl Buck viết: “Có thể đọc Kinh thánh, cả Cựu ước lẫn Tân ước, theo nhiều cách. Đối với một số người, Kinh thánh lập thành những lời giảng dạy thiêng liêng. Đối với một số người khác, Kinh thánh là tác phẩm văn chương thuần khiết nhất mà chúng ta có trong ngôn ngữ nước nhà. Đối với một số người khác nữa, Kinh thánh là một bản tóm tắt sự hiểu biết về bản chất con người trong khổ đau, phấn đấu và hân hoan.”
Thật thế, Kinh thánh là một công trình thần hứng, vượt ra ngoài khuôn khổ của một tôn giáo và một dân tộc. Cuộc hành trình của dân Do Thái tiêu biểu cho cuộc hành trình của loài người. Các nhân vật Kinh thánh in đậm dấu vết con người muôn hình muôn vẻ và muôn đời. Đây là bộ sách đầy minh triết, làm gia tăng cảm quan đạo đức và không kém phần thi vị. Đây cũng là sự mạc khải thầm lặng và say đắm về cuộc phấn đấu của con người, cả nam lẫn nữ, trong nỗ lực tìm kiếm cội nguồn của mình và nguyên ủy của sự sống và sự chết. Trong cuộc lữ hành đó, con người bắt gặp đấng tối cao chân chính, độc nhất, nhân từ và chung thủy, đồng thời nhận ra rằng mọi người đều là anh chị em nhau. Con người phơi phới đến với thượng đế trong yêu thương, tuân phục và thờ phượng, đồng thời sống làm một với người bên cạnh trong bác ái và phục vụ.
Kinh thánh gồm Cựu ước và Tân ước, tập thành rải rác trong hơn một ngàn năm. Cựu ước gồm nhiều tập sách được ghi lại bắt đầu từ thời Đa-vít, khoảng năm 1.000, và kết thúc khoảng năm 200 trước Công nguyên. Tân ước được ghi lại trong thế kỷ thứ nhất của Công nguyên. Xuyên suốt Kinh thánh là một thông điệp đức tin, nổi bật lên lời giao ước của thượng đế cho con người. Một lời giao ước xuất hiện đầy nghiêm khắc trong Cựu ước và được kiện toàn một cách đầy thương yêu trong Tân ước.
Từ hàng ngàn trang cổ văn gồm các luật lệ, ca nguyện, sự tích và lời giảng, Pearl Buck tuyển ra những nhân vật, những sự kiện tiêu biểu và kể lại theo cách của bà, thành bảy mươi hai câu chuyện, bắt đầu từ sáng thế cho tới khi Đức Ki-tô lên trời. Đây là một tác phẩm công khó trong nhiều năm và được xuất bản lần đầu vào năm 1971, đánh dấu năm bà tám mươi tuổi.
Tuy cuốn Chuyện Kinh thánh không phản ánh hết được toàn bộ Kinh thánh, cũng không thể thay thế cho Kinh thánh, nhưng theo nhận xét của nhiều người trong giới thẩm quyền giảng huấn tôn giáo và phê bình văn học thì đây là một thành tựu lớn lao của Pearl Buck. Tác phẩm cô đọng sự kết tập cả hai truyền thống đông và tây, cả văn học lẫn tôn giáo. Thân phụ bà là một nhà truyền giáo tại Trung Hoa và cũng là một học giả tinh thông tiếng Híp-ri và Hy Lạp. Ông hầu như chỉ tín nhiệm vào hai bản Kinh thánh Qui điển Híp-ri và Hi Lạp. Bản thân bà, lúc trẻ từng kết hôn với một nhà truyền giáo. Bà trải qua thời niên thiếu tại Trung Hoa và sau đó, quay lại giảng dạy ở Đại học Nam Kinh. Bà khởi đầu văn nghiệp và thành danh qua các tác phẩm lấy bối cảnh và nhân vật Trung Hoa nửa đầu thế kỷ hai mươi. Bà thường xuyên tiếp cận với lối sống đạo và kinh sách của nhiều tôn giáo tại Ấn Độ, Trung Hoa; và Kitô giáo cũng được bà nhìn như một tôn giáo phương đông. Bên cạnh đó, bà là một văn hào từng được trao giải Pulitzer của Hoa Kỳ và giải Nobel Văn chương.
Bà kể những chuyện trong Kinh thánh chứ không viết lại Kinh thánh. Bà bám rất sát các sự kiện và lời nói trong Kinh thánh, không thêm không sửa, nhất là cố giữ phần đối thoại y nguyên tối đa, bà chỉ minh họa thêm vài cử chỉ, ít nụ cười, mấy tiếng thở dài... Dưới ngòi bút linh động của bà, mỗi câu chuyện bà kể vừa chuyên chở được bản thông điệp tâm linh, vừa giữ được tính cách chính thống trong phạm vi qui điển, đồng thời, tạo được nhịp cầu giao cảm giữa độc giả ngày nay với tâm tình nhân vật và các sự kiện lịch sử hàng ngàn năm trước. Bà đã chuyển được phần nào nội dung của cuốn Kinh thánh dày cộm thành những câu chuyện hấp dẫn và đặt vào lòng bàn tay của người đọc bình thường, trong và ngoài Kitô giáo.
Thêm nữa, ẩn trong lối hành văn mộc mạc và cảm động của bà, người đọc thấy lấp lánh nét tinh anh của một tâm hồn nhân ái, đại kết tôn giáo, tôn trọng nữ quyền, yêu thương mọi chủng tộc, tha thiết với môi trường sống...
Bền vững và ngời sáng giữa các câu chuyện xa xưa ấy là đức tin tôn giáo nguyên thủy, đơn sơ và dồi dào khí lực. Vượt lên trên các luận thuyết phức tạp, xuyên phá nghi lễ và phẩm trật, ở bên kia ngôn từ và truyền thuyết, đức tin thuần khiết ấy hồn nhiên toả hơi ấm đều khắp cuộc sống thường ngày. Và trong cuộc sáng thế đang tiếp diễn và ngày càng tốt đẹp này, Kinh thánh mãi mãi là lời giao ước và là tin mừng cho mọi dân tộc, cho mọi người, để sống hiệp nhất và bình an.
Người Dịch: Nguyễn Ước
***
Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức.
Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng.
Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự.
Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh.
Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo.
Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla.
• Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt:
Gió Đông, gió Tây;
Ảo vọng;
Sống vì đất;
Tiếng gọi đồng quê;
Lá thư Bắc Kinh;
Tình yêu sau cùng;
Người mẹ;
Nhớ cảnh nhớ người;
Yêu muộn;
Nạn nhân buổi giao thời;
Mấy người con trai Vương Long;
Đứa con người yêu;
Một phút một đời;
Một lòng với em;
Một cuộc hôn nhân;
Lưu đày;
Lưu đày biệt xứ;
Cánh hoa e ấp;
Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên;
Truyện Đông phương;
Người vợ tiên;
Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy;
Những người đàn bà trong gia đình Kennedy;
Tà áo xanh;
Nỗi buồn nhược tiểu;
Người yêu nước;
Ngoài chân mây;
Hứa hẹn;
Bão loạn;
Mẫu đơn;
Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ;
Yêu mãi còn yêu;
Ba người con gái của Lương phu nhân;
Trái tim kiêu hãnh;
Một trái tim tự hào;
Biên giới tình yêu;
Tình cõi chân mây;
Nô tì Mẫu Đơn;
Đóa hoa ẩn mình;
Trang;
Người thành phố;
Bí mật đời nàng;
Người yêu nước;
Thiên Hậu;
Người cung nữ;
Từ Hi Thái hậu;
Con rồng linh diệu;
Hạt giống của rồng;
Vương Nguyên;
Đất lành;
Chuyện Kinh Thánh;
Những người con của tiến sĩ Lương;
Tiếng nói trong nhà;
Tử thần và rạng đông;
Người mẹ già;
Những mảnh hồn sầu xứ.”
Thật thế, Kinh thánh là một công trình thần hứng, vượt ra ngoài khuôn khổ của một tôn giáo và một dân tộc. Cuộc hành trình của dân Do Thái tiêu biểu cho cuộc hành trình của loài người. Các nhân vật Kinh thánh in đậm dấu vết con người muôn hình muôn vẻ và muôn đời. Đây là bộ sách đầy minh triết, làm gia tăng cảm quan đạo đức và không kém phần thi vị. Đây cũng là sự mạc khải thầm lặng và say đắm về cuộc phấn đấu của con người, cả nam lẫn nữ, trong nỗ lực tìm kiếm cội nguồn của mình và nguyên ủy của sự sống và sự chết. Trong cuộc lữ hành đó, con người bắt gặp đấng tối cao chân chính, độc nhất, nhân từ và chung thủy, đồng thời nhận ra rằng mọi người đều là anh chị em nhau. Con người phơi phới đến với thượng đế trong yêu thương, tuân phục và thờ phượng, đồng thời sống làm một với người bên cạnh trong bác ái và phục vụ.
Kinh thánh gồm Cựu ước và Tân ước, tập thành rải rác trong hơn một ngàn năm. Cựu ước gồm nhiều tập sách được ghi lại bắt đầu từ thời Đa-vít, khoảng năm 1.000, và kết thúc khoảng năm 200 trước Công nguyên. Tân ước được ghi lại trong thế kỷ thứ nhất của Công nguyên. Xuyên suốt Kinh thánh là một thông điệp đức tin, nổi bật lên lời giao ước của thượng đế cho con người. Một lời giao ước xuất hiện đầy nghiêm khắc trong Cựu ước và được kiện toàn một cách đầy thương yêu trong Tân ước.
Từ hàng ngàn trang cổ văn gồm các luật lệ, ca nguyện, sự tích và lời giảng, Pearl Buck tuyển ra những nhân vật, những sự kiện tiêu biểu và kể lại theo cách của bà, thành bảy mươi hai câu chuyện, bắt đầu từ sáng thế cho tới khi Đức Ki-tô lên trời. Đây là một tác phẩm công khó trong nhiều năm và được xuất bản lần đầu vào năm 1971, đánh dấu năm bà tám mươi tuổi.
Tuy cuốn Chuyện Kinh thánh không phản ánh hết được toàn bộ Kinh thánh, cũng không thể thay thế cho Kinh thánh, nhưng theo nhận xét của nhiều người trong giới thẩm quyền giảng huấn tôn giáo và phê bình văn học thì đây là một thành tựu lớn lao của Pearl Buck. Tác phẩm cô đọng sự kết tập cả hai truyền thống đông và tây, cả văn học lẫn tôn giáo. Thân phụ bà là một nhà truyền giáo tại Trung Hoa và cũng là một học giả tinh thông tiếng Híp-ri và Hy Lạp. Ông hầu như chỉ tín nhiệm vào hai bản Kinh thánh Qui điển Híp-ri và Hi Lạp. Bản thân bà, lúc trẻ từng kết hôn với một nhà truyền giáo. Bà trải qua thời niên thiếu tại Trung Hoa và sau đó, quay lại giảng dạy ở Đại học Nam Kinh. Bà khởi đầu văn nghiệp và thành danh qua các tác phẩm lấy bối cảnh và nhân vật Trung Hoa nửa đầu thế kỷ hai mươi. Bà thường xuyên tiếp cận với lối sống đạo và kinh sách của nhiều tôn giáo tại Ấn Độ, Trung Hoa; và Kitô giáo cũng được bà nhìn như một tôn giáo phương đông. Bên cạnh đó, bà là một văn hào từng được trao giải Pulitzer của Hoa Kỳ và giải Nobel Văn chương.
Bà kể những chuyện trong Kinh thánh chứ không viết lại Kinh thánh. Bà bám rất sát các sự kiện và lời nói trong Kinh thánh, không thêm không sửa, nhất là cố giữ phần đối thoại y nguyên tối đa, bà chỉ minh họa thêm vài cử chỉ, ít nụ cười, mấy tiếng thở dài... Dưới ngòi bút linh động của bà, mỗi câu chuyện bà kể vừa chuyên chở được bản thông điệp tâm linh, vừa giữ được tính cách chính thống trong phạm vi qui điển, đồng thời, tạo được nhịp cầu giao cảm giữa độc giả ngày nay với tâm tình nhân vật và các sự kiện lịch sử hàng ngàn năm trước. Bà đã chuyển được phần nào nội dung của cuốn Kinh thánh dày cộm thành những câu chuyện hấp dẫn và đặt vào lòng bàn tay của người đọc bình thường, trong và ngoài Kitô giáo.
Thêm nữa, ẩn trong lối hành văn mộc mạc và cảm động của bà, người đọc thấy lấp lánh nét tinh anh của một tâm hồn nhân ái, đại kết tôn giáo, tôn trọng nữ quyền, yêu thương mọi chủng tộc, tha thiết với môi trường sống...
Bền vững và ngời sáng giữa các câu chuyện xa xưa ấy là đức tin tôn giáo nguyên thủy, đơn sơ và dồi dào khí lực. Vượt lên trên các luận thuyết phức tạp, xuyên phá nghi lễ và phẩm trật, ở bên kia ngôn từ và truyền thuyết, đức tin thuần khiết ấy hồn nhiên toả hơi ấm đều khắp cuộc sống thường ngày. Và trong cuộc sáng thế đang tiếp diễn và ngày càng tốt đẹp này, Kinh thánh mãi mãi là lời giao ước và là tin mừng cho mọi dân tộc, cho mọi người, để sống hiệp nhất và bình an.
Người Dịch: Nguyễn Ước
***
Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức.
Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng.
Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự.
Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh.
Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo.
Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla.
• Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt:
Gió Đông, gió Tây;
Ảo vọng;
Sống vì đất;
Tiếng gọi đồng quê;
Lá thư Bắc Kinh;
Tình yêu sau cùng;
Người mẹ;
Nhớ cảnh nhớ người;
Yêu muộn;
Nạn nhân buổi giao thời;
Mấy người con trai Vương Long;
Đứa con người yêu;
Một phút một đời;
Một lòng với em;
Một cuộc hôn nhân;
Lưu đày;
Lưu đày biệt xứ;
Cánh hoa e ấp;
Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên;
Truyện Đông phương;
Người vợ tiên;
Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy;
Những người đàn bà trong gia đình Kennedy;
Tà áo xanh;
Nỗi buồn nhược tiểu;
Người yêu nước;
Ngoài chân mây;
Hứa hẹn;
Bão loạn;
Mẫu đơn;
Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ;
Yêu mãi còn yêu;
Ba người con gái của Lương phu nhân;
Trái tim kiêu hãnh;
Một trái tim tự hào;
Biên giới tình yêu;
Tình cõi chân mây;
Nô tì Mẫu Đơn;
Đóa hoa ẩn mình;
Trang;
Người thành phố;
Bí mật đời nàng;
Người yêu nước;
Thiên Hậu;
Người cung nữ;
Từ Hi Thái hậu;
Con rồng linh diệu;
Hạt giống của rồng;
Vương Nguyên;
Đất lành;
Chuyện Kinh Thánh;
Những người con của tiến sĩ Lương;
Tiếng nói trong nhà;
Tử thần và rạng đông;
Người mẹ già;
Những mảnh hồn sầu xứ.”