Truyện cười - Trang 23

Hết khoe chữ

Có một nhà sư hay khoe chữ, thích đối đáp. Một hôm, học trò vào vui cảnh chùa, nhà sư ra câu đối, thách đối:
- Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ
Thấy câu đối có ý châm chọc mình, anh học trò liền trả miếng:
- Trên sư dưới sãi, ngảng lưng trở lại, trên vãi dưới sư
Từ đó, nhà sư chỉ lo đọc kinh kệ, không dám khoe chữ nữa.

Sát sinh tội nặng lắm!

Một người đánh cá đem cá vào chợ bán. Có nhà sư trông thấy, bảo:
- Ngày nào ngươi cũng sát sinh, tội nặng lắm! Ðể nhà chùa làm lễ sám hối cho, có bằng lòng không?
Người đánh cá hỏi: - Sám hối thì phải thế nào?
Sư bảo: - Bán rẻ cá cho nhà chùa để nhà chùa phóng sinh, thả xuống ao.
Người đánh cá nói:
- Vâng! Nhưng xin nhà chùa cho mỗi con năm tiền, chứ kém không được.
Sư nói:
- Nam mô phật! Sao đắt thế! Xưa nay nhà chùa vẫn mua cá rán ở hàng cơm cũng chỉ có ba tiền một con, nữa là cá chưa rán.

Con thanh tịnh

Ông quan nọ muốn ăn thịt ếch, sai lính đi bắt, nhưng lại không muốn dùng tiếng "ếch", nghe không sang, bảo là đi bắt con thanh tịnh, ý nói trong sạch, không ăn bẩn.
Lính nghĩ nát óc mà không hiểu "con thanh tịnh" là con gì, gặp ai cũng hỏi. Hỏi nhà sư, nhà sư nói:
- ở trên đời này, chỉ có nhà tu hành là thanh tịnh thôi!
Lính mừng quá bắt sư trói lại, lôi về để dưới nhà giam, vội vàng lên công đường thưa:
- Bẩm con đã bắt được con thanh tịnh về đây rồi ạ.
Quan truyền: - Thế thì chặt đâu lột da cho ta!
Sư nghe, sợ mất vía, lạy lục.
- Nhờ anh lên bẩm quan, hôm qua tôi có ăn mấy miếng thịt cầy,
chẳng được thanh tịnh nữa, xin quan xét cho!

Sao đã vội chết

Một ông thầy lang xưa nay vẫn khoe chữa bệnh giỏi, ngày nọ có một ông lão đột ngột lại hỏi:
- Lão nghe thầy chữa bệnh thần lắm, thầy đã chữa khỏi được mấy đám rồi?
Ông lang quả quyết đáp:
- Bao nhiêu đám mà nghe lời tôi là chữa khỏi hết.
Ông lão cau mặt nói:
- Thầy quên rồi à? Thầy bảo thằng cháu nhà tôi uống thuốc của thầy một năm thì khỏi, sao nó mới uống được ba tháng đã chết? Ông lang xua tay nói:
- Rõ ràng tại cậu nhà không chịu nghe lời tôi. Tôi bảo uống thuốc một năm, sao mới uống ba tháng đã vội chết? Cứ uống thuốc đủ năm, xem có khỏi không nào?

Ghen bóng ghen gió

Một anh học trò có tính hay ghen muốn thử lòng vợ. Tối đến anh ta ngôi núp một xó, đợi vợ di qua thì chạy ra ôm chầm lấy. Vợ giật mình kêu lên. Anh ta mừng lắm, nói:
- Rõ thật phúc nhà mình. Ðược người vợ trinh tiết.
Một hôm, xem sử đến chỗ Tần Cối giết Nhạc Phi anh ta giận lắm, tay đang cầm cái chén, quăng xuống đất vỡ tan. Vợ thấy thế, nói:
- Cả nhà có mười cái chén, đập mất chín rồi, còn cái này lại đập nốt, lấy gì mà uống nước?
Anh ta nghe nói, trợn mắt quát to lên:
- À à! Mình bênh thằng Tần Cối à! Hay là mình đã thông dâm với nó?

Bốn cẳng, sáu cẳng

Một thầy cai sai lính lệ đi trát gấp (1); bảo anh ta lấy ngựa mà cưỡi. Anh lính lệ giắt ngựa ra đường nhưng không cưỡi, cứ xắn quần lên tận gối, cắm cổ chạy theo ngựa. Người qua đường lấy làm lạ hỏi:
- Anh điên hay sao mà không cưỡi lên ngựa chạy cho mau?
Anh lính lệ trả lời:
- Khéo cho anh! Bốn cẳng lại nhanh hơn sáu cẳng được à!
(1) trát: cũng như ngày nay ta nói công văn

Ba anh đầy tớ

Một lão nhà giàu có ba anh đầy tớ, nhưng mỗi anh một tính, anh thì rất cẩn thận, anh thì rất lo xa, còn một anh thì rất lễ phép. Lão lấy làm đắc ý lắm.
Một hôm, cậu con cả lão ngã xuống ao, anh cẩn thận trông thấy, chạy về thưa với chủ:
- Thưa ông, cậy cả nhà ngã xuống ao, xin ông cho phép con đi vớt cậu lên ạ!
Vớt lên được, thì cậu cả đã chết ngoẻo rồi. Lão liền vác gậy đuổi, anh cẩn thận chạy biến. Lão sai anh lo xa đi mua áo quan về liệm. Ðược một lúc, anh này mang về hai cái. Thấy thế ông chủ trừng mắt:
- Tại sao mua những hai cái, thằng kia?
Anh này trả lời:
- ấy, con mua phòng xa, nhỡ cậu hai có chết đuối thì có cái dùng ngay.
Lão lại vác gậy đuổi đi.
Chỉ còn anh lễ phép vẫn được lòng chủ. Một hôm, anh ta cùng một người nữa cáng chủ nhà đi chơi. Ðến chỗ lội bùn ngập đến lưng ống chân mà anh ta vẫn vui vẻ không một lời phàn nàn. Thấy thế ông chủ khen:
- Anh khá lắm, biết chịu khó. Cứ cố đi rồi đến tết ta sẽ may cho bộ cánh.
Vừa nói đến đấy thì anh đầy tớ dặt cáng xuống giữa đống bùn khoanh tay lễ phép nói:
- Con xin đa tạ ông!

Có con giun đất!

Quan tuần rậm râu, ngồi ăn cơm với quan án không râu. Có hạt cơm dính vào râu quan tuần, anh lính hầu quan tuần vội bẩm:
- Bẩm cụ lớn, trong bộ râu cụ lớn có hòn ngọc minh châu. Quan tuần thủng thẳng vuổt râu để cho hạt cơm rơi xuống.
Quan án về nhà, bảo anh lính hầu mình:
- Ðấy mày xem! Lính bên quan tuần khôn ngoan thế đây! Giá mày học được như nó thì có phải tao cũng được mát mặt không?
Cách mấy hôm sau, quan tuần sang quan án ăn cơm. Có sợi bún dính ở mép quan án, anh lính hầu quan ăn trông thấy vội bẩm:
- Bẩm cụ lớn, trên mép cụ lớn có con giun đất đấy ạ!

Bố mày! Ðã chết với tao chưa?

Một anh, nhà có giỗ, vợ vừa làm cỗ xong, đặt lên bàn thờ thì một con ruồi đến đậu ngay lên đĩa thịt. Chị vợ vội kêu lên:
- Thôi chết rồi! Mâm cơm cúng ông bà mà anh không coi cẩn thận để ruồi nó đậu vào, làm uế tạp mất rồi!
Anh chồng nghe thế, giận con ruồi lắm, nghĩ bụng: Hai vợ chồng lòng thành làm được mâm cơm mà con ruồi nó làm ô uế, giờ có cúng, ông bà cũng không về hưởng nữa, liền lên huyện kêu:
- Bẩm lạy quan lớn, chúng tôi vất vả quanh năm hôm nay mới làm đuợc mâm cơm cúng ông bà, thế mà con ruồi nó sà vào, làm ô uế cả. Xin quan lớn xử tội nhờ.
Quan nghe xong bảo:
- Tao cho phép mày từ rày hễ thấy nó bất kỳ ở đâu, cứ đánh cho chết.
Quan vừa buông lời, thì một con ruồi đến đậu ngay trên má quan. Anh kia trông thấy, mắm môi, giang tay tát bốp vào mặt quan chứi:
- Bố mày! Ðấ chết với ông chưa!

Diệu kế

Một quan võ có tính sợ vợ. Một hôm, đang cầm cự với giặc ở biên thùy, bỗng nghe tin mật báo là phu nhân đang ở sau lưng xông tới để hỏi tội quan về việc quan đem nàng hầu đi theo, quan bèn triệu tập ban tham mưu lại vấn kế.
Kẻ đưa kế này, người bày mưu nọ, tướng quân đều thấy không ổn. Bỗng một viên quân sư, vốn dòng râu quặp, tiến lại tâu rằng:
- Trước mặt, địch quân như gió bão, sau lưng phu nhân như nước lũ. Song lọt vào tay giặc không nguy bằng lọt vào tay phu nhân. Chỉ có nước tướng quân hàng giặc, để thoát khỏi tay phu nhân là hay hơn cả.
Ông tướng vỗ đùi khen:
- Diệu kế! Tuyệt diệu kế!

Quan thị và quan võ xỏ nhau

Quan Võ ghét quan Thị, trông thấy quan mới đọc một vế câu đối xỏ:
Thị vào hầu, thì đứng thị trông,
Thị cũng muốn, thị không có ấy.
Bốn chữ thị ở đay có bốn nghĩa và được giả thích ngay, chứ thị đầu là hầu hạ, chữ thứ hai là trông, chữ thứ ba là muốn, chữ thứ tư là ấy.
Quan thị tữc quá đối lại:
Vũ cậy mạnh, vũ ra vũ mưa,
Vũ gặp mưa, vũ ướt cả lông.
Bốn chữ vũ cũng có bốn nghĩa và được giả thích ngay như bốn chữ thị ở vế trên. Hai bên đối nhau đêu giỏi cả, thật là kẻ tám lạng người nửa cân.

Dân giần quan

Có hai anh lính hầu hạ quan lâu ngay, thấy quan đã ác lại hay ăn tiền, cứ có việc vào cửa quan là y như bị đánh đập tàn tệ, đến lúc xì tiền ra mới thôi.
Một hôm, rỗi rãi, hai anh ngồi kháo chuyện với nhau, nói xấu quan. Một anh bảo:
- ác thế thì có ngày dân nó quật lại cho mà xem!
Quan quán quạt chi quàn quan
Dân dấn dận chi dần dân
Quan là quan, quan quàn dân
Dân là dân, dân giần quan.
Chẳng ngờ quan đi qua nghe được trợn mắt hỏi: - Bay nói gì thế? Anh kia nói chữa:
- Bẩm quan, con bảo: "Quan quản dân, dân... cần quan. Không có quan thì ai cai trị dân".

Quan lớn mua vàng

Theo lệ ngày xưa, ai làm quan thì mua món gì cũng chỉ phải trả nửa giá tiền, trừ mua vàng phải trả đủ.
Một ông quan nọ vừa đến nhậm chứa, bảo hiệu vàng đem hai lạng đến bán cho ngài. Chủ hiệu vàng nghe tiếng quan dữ như cọp, mói bẩm:
- Vàng mỗi lạng thực giá sáu chục đồng, song quan lớn thì trả một nửa cũng được.
Quan cầm hai lạng vàng xem, rồi ung dung bỏ một lạng vào túi. Chủ hiệu tưởng quan chỉ mua có một lạng, còn lạng kia trả lại, nên khi quan vào nhà trong, anh ta vẫn đứng đấy đợi trả tiền. Hồi lâu quan ra, thấy vậy mới hỏi:
- Mua bán xong rồi, còn đứng đấy làm gì?
Chủ hiệu vàng đáp: - Con chờ quan lớn trả tiền cho.
Quan bảo: - Tiền trả rồi, còn đòi gì nữa?
Chủ hiệu vàng đáp: - Hai lạng, quan trả lại một lạng, lấy một lạng. Quan nổi giận:
- Nhà ngươi lạ thật! Nhà ngươi bảo ta trả một nửa cũng được. Ta mua hai lạng, nhưng chỉ lấy một, trả lại một chẳng phải là đã trả một nửa là gì!

Cứ bảo tuổi sửu có được không?

Ðồn rằng có một ông quan huyện rất thanh liêm, không ăn của dút bao giờ. Bà huyện thấy tính chông như vậy cũng không dám nhận lễ của ai. Có làng nọ muốn nhờ quan huyện bênh cho được kiện, nhưng mang lễ vật gì đến, quan cũng gạt đi hết. Họ mới tìm cách đút lót với bà huyện. Bà huyện cũng chối đây đẩy:
- Nhà tôi thanh liêm lắm, tôi mà nhận của các ông thì mươi, mười lăm năm sau, ông ấy biết ông ấy cũng vẫn còn rầy la tôi cơ đấy! Dân làng năn nỉ mãi, bà nể tình mới bày cách:
- Quan huyện nhà tôi tuổi "tí". Dân làng đã có ý như vậy, thì hãy về đúc một con chuột bạc đến đây, rồi tôi cố nói giùm cho, họa may được chăng!
Dân làng nghe lời, về đúc một con chuột cống thật to, ruột đặc, toàn bằng bạc đem đến.
Một hôm, ông huyện trông thấy con chuột bạc, mới hỏi ở đâu ra, bà huyện liền đem sự tình kể lại. Nghe xong, ông huyện mắng:
- Sao mà ngốc vậy! Lại đi bảo là tuổi "tí"! Cứ bảot tuổi "Sủu" có được không!

Mất trộm bò

Một người vừa mới tậu được con bò. Tối đi ngủ, anh ta đã chốt chuồng bò cẩn thận rồi lại đặt cái chõng ngay giữa lối ra vào mà nằm ngủ. ấy thế mà ban đêm, kẻ trộm vẫn vào dắt mất bò của anh ta. Xót ruột, anh ta trình quan:
- Bẩm quan, chắc là chúng nó dắt bò chui qua chõng con nằm mà đi ra.
Quan nghe nói vô lý quả bật cười:
- Con bò chứ có phải con chó, con mèo đâu mà chui qua gầm chõng!
- Dạ, bẩm quan, thế thì chúng nó dắt bò của con đi lối nào? Sáng dậy cái chõng con nằm vẫn để y nguyên ở chỗ cũ chắn lối ra vào kia mà!
- Ðồ ngốc! Mày ngủ say, chúng nó khiêng chõng mày nằm ra một bên, dắt bò ra rồi lại khiêng về chỗ cũ...
Người kia như vỡ lẽ, nói:
- à, thế ra quan thông đồng với bọn trộm, nên mới tỏ tường được như thế chứ!

Bẩm chó cả

Nhà nọ thấy quan lại tham nhũng, trong lòng rất khinh. Một hôm, các quan đến nhà chơi, trong số đó có cả mấy bạn đồng song thuở trước. Ông ta bảo người nhà dọn rượu thết.
Người nhà bưng mâm lên, ông ta đứng dậy thưa:
- Chả mấy khi rồng đến nhà tôm, các ngài có bụng yêu nhà nho thanh bạch đến chơi, có chén rượu nhạt xin các ngài chiếu cố cho.
Các quan cầm đũa, bấp mấy món. Các quan ăn thấy ngon miệng, liền khề khà hỏi: đây đĩa gì, kia bát gì...
Nhà nho thong thả nói:
- Ðây là chó, kia cũng là chó, bẩm toàn chó cả.

Xiển trả lời vua

Ðồn rằng có một lần vua ngự tuần ra Thanh Hóa. Nghe nói con cháu Trạng Quỳnh vẫn còn, vua bèn cho đòi đến. Xiển vâng lệnh tới hầu. Vua hỏi:
- Trước khi Trạng chết có trối trăng lại điều chi không?
Xiển đáp: - Dạ có ạ!
Vua bảo: - Thế nhà ngươi hãy thuật lại lời Trạng trối trăng cho ta nghe.
- Dạ tâu Hoàng thượng, cố tôi trước khi từ trần chỉ trối lại có một câu thôi ạ!
- Một câu cũng được, cứ nói ta nghe.
- Dạ, nhưng tôi không dám nói ạ!
- Tại sao!
- Dạ, nói ra sợ Hoàng thượng không được vui lòng.
- Ðược cứ nói, dù câu nói ấy thế nào ta vẫn không bắt tội.
Xiển năm bảy lần từ chối, vua năm bảy lần gặng hỏi, sau cùng Xiển mới thưa:
- Dạ, tâu Hoàng thượng, ông tôi kể lại rằng: "Trước khi cố tôi nhắm mắt, con cháu xúm xít quanh giường hỏi cố tôi có dặn con cháu điều chi không. Nhưng cố tôi không trả lời. Con cháu không yên tâm, cứ gặng hỏi mãi, cố tôi chỉ quát lên một câu: "Hỏi cái mả cha bay hay sao mà hỏi mãi thế?", rồi tắt thở

Tứ chứng nan y

Xiển làm thuốc. cho nên vua thường vời vào kinh chữa bệnh. Một hôm, vua đang nô đùa cùng bầy cung phi, thì thấy Xiển bước vào. Vua ngạc nhin hỏi có việc gì. Xiển đáp:
- Hạ thần nghe nói Hoàng thượng mắc phải bốn bệnh hiểm nghèo mà sách gọi là "tứ chứng nan y", nên vội vàng vào thăm Hoàng thượng.
Vua khó chịu nói:
- Thiên hạ ác miệng nói càn như vậy, chứ lâu nay Trẫm vẫn khẻo mạnh, có việc gì đâu! à thế "tứ chứng nan y" là nhứng bệnh gì? Xiển tâu: - Dạ "tứ chứng nan y" họ nói đó là què, mù, câm điếc. Vua nổi giận:
- Ðộc ác đến mức ấy là cùng! Trấm mà biết kẻ nào bịa chuyện phao đồn ra đầu tiên thì Trẫm sẽ cắt lưỡi chứ không tha!
Xiển nói:
- Hạ thần nghe thiên hạ đồn như vậy. Bây giờ mới biết là sai. Nhưng nghĩ cho kỹ, thì lại thấy là có nguyên do cả đấy ạ!
Vua hỏi: - Nguyên do như thế nào?
Xiển giả bộ rụt rè: - Xin Hoàng thượng tha tội kẻ hạ thần mới dám nói.
Vua bằng lòng. Xiển nói:
- Thiên hạ thấy Hoàng thượng suốt năm chỉ quanh quẩn trong cung điện nên họ lầm tưởng là ngài què. Nước sắp mất mà Hoàng thượng vẫn ung dung vui thú, nên họ lầm tưởng là ngài mù. Trước cảnh núi sông bị quân giặc dày xéo mà Hoàng thượng cứ ngồi im, nên họ tưởng là ngài câm. Khắp nơi người ta đều kêu Hoàng thượng là kẻ hèn yếu, khiếp nhược nhưng ngài vẫn làm ngơ ký hòa ước hàng giặc, nên họn lầm tưởng là ngài điếc.
Vua biết Xiển chửi mình, tức uất người nhưng không đủ lý lẽ để bắt tội được.

Xiển vào dinh tổng đốc xin tiền

Gặp lúc hỏng thi, Xiển và mấy anh em bạn đồng môn ngồi buồn mới giở trò bù khú với nhau. Anh em biết Xiển có tài ứng đối, thách Xiển vào xin tiền quan tổng đốc. Bây giờ tổng đốc Thanh Hóa khét tiếng là một người hiếu sát. Xiển bắt anh em giao kèo: nếu xin được tiền thì anh em cứ tính một đền thành ba, nghĩa là anh em sẽ phải trả cho Xiển một số tiền gấp ba số tiền Xiển xin được của quan. Bằng không dám xin, hoặc xin không được thì Xiển phải thết anh em một bữa no say. Tưởng đùa vui, nào ngờ Xiển vào tận dinh quan. Ai nấy chắc phen này Xiển sẽ làm ma không đầu.
Một buổi sáng nọ, quan vừa mở mắt ra công đường đã thấy Xiển quỳ ở ngoài sân. Quan quắc mắt hỏi:
- Thằng kia! Mày tới đây có việc gì?
Xiển thưa:
- Bẩm cụ lớn, con muốn nhờ tay cụ lớn hóa kiếp cho con.
Quan quát: - Thằng này muốn chết à?
Xiển trịnh trọng nói:
- Bẩm chính thế à. Con nghe nói lưỡi gươm cụ lớn sắc lắm, nên muốn xin cụ lớn một nhát để hồn về chín xuối cho được mát mẻ. Quan gắt:
- Thật là đồ điên, cuồng, ngu, ngộ. Vì sao mày lại muốn chết? Xiển đáp:
- Bẩm cụ lớn, con là học trò thi hỏng, nhà lại nghèo, nghiệp đèn sách chẳng ra sao, nghĩ tủi thân hổ phận chả muốn sống nữa. Quan thấy Xiển dáng người học trò nho nhã, lại đối đáp đâu ra đấy một cách bình tĩnh liền bảo:
- Nếu học trò học giỏ mà hỏng thi thì cũng còn đáng thương. Nếu dốt mà hỏng lại đòi chết thì chết cũng đánh đời. Vậy hãy ứng khẩu một bài thơ lấy đề là "điên cuồng ngu ngộ" ta xem.
Xiển vâng lời, ứng khẩu đọc một hơi, mối câu có một trong bốn chữ của đầu đề:
Cao Tổ điên hào kiệt
Võ Ðế ngộ thần tiên.
Tặng Ðiểm cuồng thiên địa
Nhan Tử ngu thánh hiền (1)
Nghe nói xong, quan biết Xiển có ý xỏ ngọt mình, song thấy Xiển là kẻ xuất khẩu thành chương, kính điển lau làu, văn thơ hàm súc, tỏ ra là người học thức rộng, lại có khí phách, liền thưởng cho ba chục quan tiền và bảo lui về.
Thế là từ đó, ngoài cái tên Xiển Bột còn có một cái tên nữa là Xiển Ngộ.

Chửi án Tiêu

Bị chơi nhiều vố đau quá, quan huyện dò mãi mới biết là Xiển, tức quá, nhưng có muốn gây chuyện cũng không được vì ông là người khác huyện. Lão huyện bèn đem chuyện ấy nói lại với án Tiêu và tỏ ý nhờ quan thầy trả thù hộ.
Lần ấy, án Tiêu về quê ngoại là làng Yên Lược ăn giỗ. Lão bắt dân làng phải dọn dẹp đường sá sạch sẽ, mang cờ quạt đón rước thật long trọng. Sáng sơm mai, án Tiêu mới về thì chiều nay đường làng đã được quét sạch như chùi, cây cối hai bên đường phát quang cả.
Gà gáy, Xiển dậy lấy cứt chó đem ra đường cái, cứ cách một quãng bỏ một bãi, bãi nào cũng cắm một quả ớt lớn (Thanh Hoá gọi ớt là hạt tiêu). Sáng ra, khi mọi người kính cẩn đón rước án Tiêu, Xiển vác cờ đi trước, cứ hễ trông thấy bãi cứt có cắm quả hạt tiêu, ông lại chửi: "Tổ cha đứa nào ỉa ra tiêu". án Tiêu nằm trong cáng nghe tiếng chửi, biết là Xiển chửi mình nhưng không đủ lý do để bắt bẻ, đành gọi bọn lý hương lại, quở trách không chịu đôn đốc dân phu quét dọn đường sá cho sạch và bảo chúng truyền lệnh rằng: "Quan huyện trong người khó ở, mọi người không được to tiếng, ồn ào!"