Hannibal

Tác giả : Thomas Harris
  • Lượt đọc : 786
  • Kích thước : 3.76 MB
  • Số trang : 586
  • Đăng lúc : 2 năm trước
  • Số lượt tải : 376
  • Số lượt xem : 3.137
  • Đọc trên điện thoại :
Hannibal Lecter là một nhân vật hư cấu trong series truyện trinh thám kinh dị của Thomas Harris.

Lecter được giới thiệu lần đầu vào năm 1981 trong cuốn tiểu thuyết kinh dị Red Dragon (Hình xăm Rồng Đỏ), là một bác sĩ tâm thần xuất sắc và là một kẻ ăn và giết người hàng loạt. Cuốn tiểu thuyết và phần tiếp theo, (Sự Im Lặng Của Bầy Cừu), Lecter là đối thủ thứ hai sau hai tên giết người hàng loạt trong cả hai cuốn tiểu thuyết. Tại cuốn tiểu thuyết thứ ba, Hannibal, Lecter trở thành một nhân vật chính. Và ở cuốn tiểu thuyết cuối cùng trong bộ truyện, Hannibal Rising (Hannibal báo thù), kể về quá khứ của ông cũng như lý do tại sao lại trở thành một kẻ giết người hàng loạt.






Bộ phim chuyển thể đầu tiên từ tiểu thuyết của Harris có tên là Manhunter (dựa vào Red Dragon) với Brian Cox trong vai Lecter, được gọi là "Lecktor". Năm 1991, Anthony Hopkins đã thắng một giải Oscar cho vai diễn của ông trong The Silence of the Lambs. Ông còn trở lại đóng vai Lecter trong Hannibal năm 2001 và trong lần chuyển thể thứ hai của Red Dragon năm 2002 dưới cái tên chính thức của nó. Năm 2003, Hannibal Lecter (nhân vật do Anthony Hopkins thủ vai) đã được Viện Phim Mỹ bình chọn là nhân vật phản diện hàng đầu trong Danh sách 100 anh hùng và kẻ phản diện của Viện phim Mỹ.[2] Vào tháng 7 năm 2010, Lecter nằm trong danh sách 100 nhân vật vĩ đại nhất hai mươi năm qua của Entertainment Weekly.
***
Thomas Harris (11/04/1940) là nhà văn kiêm biên kịch nổi tiếng người Mỹ. Ông cũng chính là tác giả của tiểu thuyết "Sự im lặng của bầy cừu".

Tên tuổi Harris gắn liền với xê ri tiểu thuyết kinh dị về nhân vật nổi tiếng nhất của ông, Hannibal Lecter. Lecter đứng thứ tám trong danh sách 100 nhân vật tuyệt vời nhất trong hai thập kỷ từ 1990 tới 2010 do Entertainment Weekly bầu chọn và đứng đầu danh sách 100 nhân vật phản diện do Viện Phim Mỹ bầu chọn.
Tất cả các tác phẩm của Harris đều được chuyển thể thành phim, và nổi bật nhất là bộ phim Sự im lặng của bầy cừu, một trong ba bộ phim trong lịch sử Giải thưởng Viện Hàn lâm càn quét về cả năm tượng vàng Oscar cho các hạng mục quan trọng nhất.

Các tác phẩm trong xê ri về Hannibal:
- Rồng Đỏ
- Sự Im Lặng Của Bầy Cừu
- Hannibal
- Hannibal Trỗi Dậy
***
Chiếc Mustang của Clarice Starling nảy lên trên đoạn dốc vào Cục Rượu bia, Thuốc lá và Vũ khí (BATF) trên đường Massachusetts, một sở chỉ huy thuê của Đức Cha Sun Myung Moon vì lợi ích kinh tế.

Lực lượng xung kích đang chờ đợi trên ba chiếc xe, một chiếc xe tải ngụy trang méo mó dẫn đầu, theo sau là hai chiếc xe tải đen của đội đặc vụ. Họ đang thực thi nhiệm vụ, và giờ là lúc phải phục kích trong ga ra trống huếch trống hoác.

Starling lôi túi đồ nghề khỏi xe rồi chạy đến chiếc xe dẫn đầu hai bên có căng áp phích màu trắng lấm lem với dòng chữ TIỆM CỦA MARCELL.

Từ cánh cửa sau để mở của xe tải, bốn người đàn ông đang quan sát Starling tiến đến. Dáng vẻ mảnh mai đầy mệt mỏi, cô vẫn di chuyển thật nhanh dù đang lặc lè đồ đạc, mái tóc sáng lên trong ánh huỳnh quang rờn rợn.

“Đúng là phụ nữ. Lúc nào cũng tới trễ,” một viên cảnh sát thủ đô nói.

Đặc vụ John Brigham của BATF đang ở vị trí chỉ huy.

“Không phải cô ấy trễ đâu. Xe thắng lại tôi mới nhắn cho cô ấy,” Brigham nói. “Hẳn cô ấy đã tức tốc từ Quantico đến đây. Này, Starling, đưa cái túi cho tôi.”

“Chào, John.” Cô đập tay với anh.

Brigham bàn bạc với viên cảnh sát ngồi ghế tài xế ngụy trang luộm thuộm. Cửa sau còn chưa kịp khép, chiếc xe tải đã lăn bánh, hòa vào không khí chiều thu dễ chịu bên ngoài.

Clarice Starling, vốn đã quá quen với những xe tải theo dõi, đằm mình dưới chiếc kính tiềm vọng và lùi về phía sau, sát bên khối nước đá khô nặng hơn sáu mươi cân vẫn dùng làm điều hòa nhiệt độ khi xe phải tắt máy để ẩn nấp.

Chiếc xe tải cũ kỹ ngai ngái mùi sợ hãi và mồ hôi không thể nào tẩy sạch. Trước nay nó đã từng được dán cơ man nào là nhãn mác. Bảng hiệu dơ dáy bạc màu trên cửa mới được dán ba mươi phút trước. Những lỗ đạn được trám lại bằng Bond-O thì lâu hơn.

Cửa sổ sau xe đều là gương một chiều xỉn màu vừa phải. Starling có thể quan sát hai chiếc xe to đen của đội đặc vụ theo sau. Cô hy vọng họ sẽ không phải kẹt ở trong xe hàng giờ đồng hồ.

Mỗi khi cô quay ra cửa sổ, các nam sĩ quan lại nhìn cô dò xét.

Đặc vụ FBI Clarice Starling, ba mươi hai tuổi, trông lúc nào cũng trẻ đúng tuổi và xinh đẹp ngay cả những lúc mệt mỏi.

Brigham lấy lại tập hồ sơ từ ghế trước.

“Sao lúc nào cô cũng bắt trúng mấy vụ tào lao này vậy Starling?” anh hỏi và mỉm cười.

“Vì anh cứ kêu đến tôi,” cô đáp.

“Vụ này thì tôi cần đến cô. Nhưng lạy Chúa, tôi thấy cô vẫn hay thực hiện các vụ bắt giữ khẩn cấp. Không cần hỏi tôi cũng đoán được rằng có ai đó ở Điểm Diều Hâu căm ghét cô. Cô nên sang làm việc cho tôi. Đây là nhân viên của tôi, đặc vụ Marquez Burke và John Hare, còn đây là sĩ quan Bolton của Sở Cảnh sát Thủ đô.”

Một đội đột kích liên minh giữa Cục Rượu bia, Thuốc lá và Vũ khí và Cục Phòng chống Ma túy (DEA) cùng với FBI là một đội hình gượng ép trong thời buổi kinh phí hạn hẹp này, khi mà ngay cả Học viện FBI cũng phải đóng cửa vì thiếu ngân sách hoạt động.

Trông Burke và Hare đúng là giống đặc vụ. Còn viên cảnh sát thủ đô thì nhìn như một anh mõ tòa. Anh ta trạc độ bốn lăm, béo ục và bốc mùi chua lòm.

Sau lần bị kết án dính líu đến ma túy, Thị trưởng Washington nóng lòng tỏ ra rắn tay với chất nghiện này, ông khăng khăng rằng cảnh sát thủ đô phải được chia sẻ công lao trong những vụ đột kích lớn ở thành phố Washington. Thế nên Bolton mới có mặt ở đây.

“Hôm nay bọn Drumgo sẽ nấu hàng,” Brigham lên tiếng.

“Evelda Drumgo, biết ngay mà,” Starling nói không mấy hồ hởi.

Brigham gật đầu. “Ả ta mở một xưởng ‘đá’ trên sông bên cạnh chợ cá Feliciana. Người của ta cho biết hôm nay ả sẽ nấu một mẻ ‘đá’. Và ả đã đặt sẵn vé đi đảo Grand Cayman ngay tối nay. Chúng ta không thể chần chừ được nữa.”

Crystal methamphetamine, tiếng lóng là “đá”, tạo một cơn phê ngắn nhưng siêu mạnh và gây nghiện khủng khiếp.

“Ma túy là việc của DEA nhưng chúng ta cần Evelda trong vụ vận chuyển vũ khí hạng ba liên bang. Lệnh bắt ghi chi tiết một số súng máy Beretta và vài khẩu MAC 10, mà ả biết rõ phần lớn số còn lại ở đâu. Starling, tôi muốn cô tập trung vào Evelda. Cô đã từng giáp mặt với ả rồi. Mấy người này sẽ hỗ trợ cho cô.”

“Một nhiệm vụ dễ dàng,” sĩ quan Bolton nói với vẻ hài lòng.

“Starling, tôi nghĩ cô nên kể cho họ nghe về Evelda,” Brigham nói.

Starling chờ cho chiếc xe lắc rầm rập qua đường ray xe lửa. “Evelda sẽ đánh trả,” cô nói. “Nhìn bề ngoài thì không có vẻ gì là như thế, vì ả từng là người mẫu mà. Nhưng ả sẽ đánh trả. Ả là góa phụ của Dijon Drumgo. Tôi đã từng bắt ả hai lần vì tội tổ chức bảo kê, lần đầu tiên là cùng với Dijon.

Lần gần đây nhất ả mang một khẩu chín ly với ba băng đạn và chai xịt hơi cay trong túi xách. Ả còn có một con dao gấp nhét bên trong áo ngực. Không biết lần này ả sẽ mang những gì.

Lần đó, tôi nhã nhặn yêu cầu ả đầu hàng và ả làm theo. Sau đó trong trại tạm giam thủ đô ả đã dùng cán muỗng giết một tù nhân tên Marsha Valentine. Cho nên chả biết được đâu… vẻ mặt ả khó đoán lắm. Và đại bồi thẩm đoàn đã phán là ả giết người vì tự vệ.

Ả đã thoát được tội bảo kê và xin giảm án còn lại. Tội buôn vũ khí cũng được miễn bởi ả có con nhỏ và chồng vừa chết trong vụ đọ súng ở đường Pleasant, có thể do bọn Spliffs gây ra.

Tôi sẽ kêu ả đầu hàng. Hy vọng là ả sẽ nghe theo - chúng ta phải diễn một màn. Nhưng hãy nghe tôi, nếu chúng ta phải khống chế Evelda Drumgo thì tôi cần trợ giúp thật sự. Không cần yểm trợ cho tôi, tôi muốn khống chế ả. Song các anh đừng tưởng là sẽ được xem tôi và Evelda đấu vật.”

Đã có thời Starling chắc chắn sẽ nhượng bộ những người này. Lúc này họ không hứng thú với những gì cô đang nói và cô cũng đã bị đối xử như thế mãi rồi nên chẳng buồn để tâm.

“Evelda Drumgo liên hệ với băng Trey-Eight thông qua Dijon,” Brigham nói. “Theo người của ta thì ả có một băng nhóm tên là Crip và chúng tản mát trên bờ biển. Mục đích chính của băng này là để đề phòng bọn Spliffs. Tôi không biết chúng sẽ phản ứng thế nào một khi trông thấy chúng ta. Nếu có thể, chúng sẽ không bao giờ giáp mặt cảnh sát.”

“Các anh nên biết rằng Evelda bị nhiễm HIV,” Starling nói. “Ả lây từ Dijon qua đường kim tiêm. Biết được việc này lúc ở trong trại giam, ả đã phát rồ lên. Chính vì thế hôm đó ả đã giết Marsha Valentine rồi đánh nhau với cai ngục. Nếu ả đánh nhau mà không có vũ khí, các anh nên chuẩn bị tinh thần bị dính phải bất cứ chất lỏng nào ả phun ra. Ả sẽ nhổ nước bọt và cắn các anh. Còn nếu các anh tìm cách vật ả xuống, thể nào ả cũng tiểu và ị lên người các anh. Cho nên cần thiết phải đeo găng tay và mặt nạ. Nếu các anh dúi ả vào trong xe cảnh sát, khi đặt tay lên đầu ả nhớ coi chừng kim tiêm trong tóc ả và nhớ trói chân ả lại.”

Mặt Burke và Hare dài thuỗn ra. Sĩ quan Bolton ra vẻ không thích lắm. Anh ta hướng cái cằm xệ về phía vũ khí của Starling, một khẩu Colt .45 kiểu Government* với miếng dán dùng cho ván trượt trên báng, nằm trong bao súng Yaqui bên thắt lưng phải của cô. “Lúc nào cô cũng đi lại với cái thứ đã lên nòng kia à?” anh thắc mắc.

Loại súng Colt .45 có ba kiểu chiều dài nòng, nòng kiểu Government dài 127 mm, nòng kiểu Commander dài 108 mm và nòng kiểu Officer’s ACP dài 89 mm.

“Lên nòng và khóa vào bất cứ phút nào trong ngày,” Starling đáp.

“Thật nguy hiểm,” Bolton nói.

“Vào bãi tập bắn rồi tôi sẽ giải thích với anh.”

Brigham cắt ngang. “Bolton, tôi từng huấn luyện Starling, cô ấy đã vô địch đấu súng lục liên ngành ba năm liền đấy. Không phải lo lắng về vũ khí của cô ấy đâu. Mấy gã ở Đội Giải cứu Con tin, Cao bồi Velcro đã gọi cô là gì ấy nhỉ Starling, sau lần cô hạ gục họ ấy? Annie Oakley* à?”

Annie Oakley (13/8/1860 - 3/11/1926) tên thật là Phoebe Ann Mosey, là một nhà thiện xạ người Mỹ.

“Oakley Độc Địa,” cô đáp và nhìn ra cửa sổ.

Starling cảm thấy nhức nhối và cô đơn trong chiếc xe theo dõi đầy mùi dê chứa toàn đàn ông này. Đàn ông, rượu, hương liệu cũ, mồ hôi và da thuộc. Cô cảm thấy một nỗi sợ hãi mơ hồ, như là có một đồng xu vướng bên dưới lưỡi. Một hình ảnh hiện lên trong đầu: bố cô, sặc mùi thuốc lá và sực nức xà bông, gọt một quả cam bằng con dao bỏ túi có mũi gãy thành mũi vuông, rồi bổ cam cho cô trong gian bếp. Đèn chiếu hậu chiếc xe chở hàng của ông đã biến mất khi ông ra đi vào cái đêm tuần tra - cái đêm đã cướp đi mạng sống của ông. Quần áo của ông trong tủ áo. Chiếc áo sơ mi vũ hội của ông. Một vài thứ đồ xinh xinh trong tủ áo của cô mà cô chưa mặc lần nào. Đồ tang treo trên móc áo, như những đồ chơi trên gác xép.

“Khoảng mười phút nữa,” tài xế nói vọng ra sau.