Trang chủ

Hỏi - Đáp Pháp Luật Về Thu Tiền Sử Dụng Đất

Câu hỏi 92: Trường hợp tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất theo quy định của Luật đất đai năm 2003 nhưng đến trước ngày 01-7-2014 (ngày Nghị định số 45/2014/NĐ-CP có hiệu lực thi hành) chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính về tiền sử dụng đất thì tiền sử dụng đất được xử lý như thế nào?

Trả lời:
Theo quy định tại điểm a, điểm b, điểm d khoản 1 Điều 20 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP, trường hợp tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất theo quy định của Luật đất đai năm 2003 nhưng đến trước ngày Nghị định số 45/2014/NĐ-CP có hiệu lực thi hành chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính về tiền sử dụng đất thì xử lý như sau:
-    Trường hợp tiền sử dụng đất phải nộp đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định và thông báo theo đúng quy định của pháp luật, tổ chức kinh tế có trách nhiệm tiếp tục nộp tiền sử dụng đất vào ngân sách nhà nước theo mức đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông báo và phải nộp tiền chậm nộp (nếu có) theo quy định của pháp luật phù hợp với từng thời kỳ.
-    Trường hợp tiền sử dụng đất phải nộp đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định và thông báo, nhưng chưa phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm xác định và thông báo tiền sử dụng đất phải nộp thì Ủy ban nhân dân cấp  tỉnh  căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương chỉ đạo xác định lại đảm bảo đúng quy định của pháp luật, số tiền xác định phải nộp thêm (nếu có) được thông báo để tổ chức kinh tế nộp bổ sung vào ngân sách nhà nước và không phải nộp tiền chậm nộp đối với khoản thu bổ sung này trong thời gian trước khi được xác định lại. Đối với số tiền sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định và thông báo trước khi xác định lại, tổ chức kinh tế được tiếp tục thực hiện nộp theo số đã thông báo, trường hợp nộp chưa đủ thì nay phải nộp số còn thiếu và phải nộp tiền chậm nộp như đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 20 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP.
-    Trường hợp chưa bàn giao đất thực tế1 nhưng cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn thông báo tiền sử dụng đất phải nộp và tổ chức kinh tế đã nộp tiền vào ngân sách nhà nước thì coi như tạm nộp và xử lý như quy định tại điểm b khoản 1 Điều 20 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP.


1.    Tại điểm đ khoản 1 Điều 20 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP quy định: “Thời điểm bàn giao đất thực tế được xác định như sau:
-    Trường hợp giao đất đã giải phóng mặt bằng thì thời điểm bàn giao đất thực tế là thời điểm quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
-    Trường hợp giao đất chưa giải phóng mặt bằng thì thời điểm bàn giao đất thực tế là thời điểm bàn giao đất  đã giải phóng mặt bằng theo tiến độ giao đất ghi trong dự án đầu tư đã được duyệt; trường hợp thời điểm hoàn  thành giải phóng mặt bằng không đúng với tiến độ giao đất ghi trong dự án đầu tư được duyệt thì thời điểm bàn giao đất thực tế là thời điểm bàn giao đất đã giải phóng mặt bằng trên thực địa.
Đối với dự án có thời gian giải phóng mặt bằng từ hai năm trở lên mà trong dự án được duyệt không xác định tiến độ giao đất thì việc bàn giao đất thực tế được thực hiện theo từng năm phù hợp với thực tế hoàn thành giải phóng mặt bằng trên thực địa”.

Bình luận